Lady Gaga

Lady Gaga
Gaga tại lễ nhậm chức của Joe Biden vào năm 2021
SinhStefani Joanne Angelina Germanotta
28 tháng 3, 1986 (38 tuổi)
Thành phố New York, Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • nhạc sĩ sáng tác bài hát
  • diễn viên
Năm hoạt động2001–nay
Tổ chức
  • Quỹ Born This Way
  • Haus Labs
Cha mẹ
  • Cynthia Bissett
  • Joseph Germanotta
Người thânNatali Germanotta (em gái)
Giải thưởngDanh sách
Trang webladygaga.com
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụ
  • Giọng hát
  • piano
Hãng đĩa
  • Def Jam
  • Cherrytree
  • KonLive
  • Streamline
  • Interscope
Chữ ký

Stefani Joanne Angelina Germanotta (/ˈstɛfəni ˌɜːrməˈnɒtə/ STEF-ən-ee JUR-mə-NOT; sinh ngày 28 tháng 3 năm 1986), thường được biết đến với nghệ danh Lady Gaga, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ sáng tác bài hát kiêm diễn viên người Mỹ. Cô nổi danh thông qua việc đổi mới hình tượng bản thân và linh hoạt giữa ca hát và diễn xuất trong ngành công nghiệp giải trí. Gaga đã bắt đầu biểu diễn từ khi còn là một thiếu niên, đi hát tại các đêm nhạc open mic và tham gia diễn xuất trong các vở kịch ở trường. Cô theo học tại học viện Collaborative Arts Project 21, trực thuộc Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York, trước khi bỏ học để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Sau khi Def Jam Recordings hủy bỏ hợp đồng với Gaga, cô trở thành nhạc sĩ cho Sony/ATV Music Publishing và tại đây cô ký kết một thỏa thuận chung với Interscope Records và KonLive Distribution vào năm 2007. Gaga có bước đột phá vang dội vào năm tiếp theo với album phòng thu đầu tay, The Fame, cùng những đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng như "Just Dance" và "Poker Face". Album này sau đó được tái phát hành với EP The Fame Monster (2009), trong đó có các đĩa đơn thành công như "Bad Romance", "Telephone" và "Alejandro".

Năm album thành công của Gaga đều đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. Album phòng thu thứ hai của cô, Born This Way (2011) có sử dụng thể loại nhạc rock điện tử và techno-pop đã bán được hơn một triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành. Ca khúc chủ đề trở thành bài hát bán chạy nhất trên iTunes Store nhờ vào hơn một triệu lượt tải xuống trong vòng chưa đầy một tuần. Tiếp sau album thứ ba mang âm hưởng EDM Artpop (2013) với đĩa đơn chủ đạo "Applause", Gaga cho phát hành album nhạc jazz Cheek to Cheek (2014) hợp tác với Tony Bennett và album soft rock Joanne (2016). Kể từ đó, cô bắt đầu dấn thân vào diễn xuất và giành được nhiều giải thưởng từ các vai chính trong miniseries Truyện kinh dị Mỹ: Khách sạn (2015–2016) và bộ phim âm nhạc Vì sao vụt sáng (2018). Cô tham gia vào sáng tác cho album nhạc phim của Vì sao vụt sáng, trong đó có ca khúc đứng đầu bảng xếp hạng "Shallow", và nó đã giúp cô trở thành người phụ nữ đầu tiên giành được giải Oscar, giải BAFTA, giải Quả cầu vànggiải Grammy trong cùng một năm. Cuối cùng, Gaga trở lại với thể loại dance-pop trong album phòng thu thứ sáu của mình tên là Chromatica (2020) cùng với đĩa đơn quán quân "Rain on Me". Cô đã phát hành album hợp tác thứ hai với Bennett, Love for Sale và đóng vai chính trong bộ phim tiểu sử Gia tộc Gucci vào năm 2021.

Với doanh số ước tính khoảng 170 triệu đĩa, Gaga trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới và là nữ nghệ sĩ duy nhất có 4 đĩa đơn mà mỗi đĩa đã bán được ít nhất 10 triệu bản trên toàn cầu. Các thành tựu của cô bao gồm 13 giải Grammy, hai giải Quả cầu vàng, 18 giải Video âm nhạc của MTV, giải thưởng từ Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ và Hội đồng Các nhà thiết kế thời trang Hoa Kỳ, đồng thời được Billboard vinh danh là Nghệ sĩ của năm (2010) và Người phụ nữ của năm (2015). Gaga cũng được góp mặt vào nhiều bảng xếp hạng quyền lực của Forbes và xếp thứ tư trong danh sách Những người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc của VH1 (2012). Time đã vinh danh cô là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới vào năm 2010 và 2019, cũng như xếp cô vào danh sách 100 biểu tượng thời trang mọi thời đại của họ. Những hoạt động thiện nguyện và xã hội của Gaga tập trung chủ yếu vào việc nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần và ủng hộ quyền LGBT; cô thành lập tổ chức phi lợi nhuận riêng có tên là Quỹ Born This Way, nhằm hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần của thanh niên. Gaga còn tham gia vào lĩnh vực kinh doanh với thương hiệu mỹ phẩm thuần chay mang tên Haus Labs ra mắt vào năm 2019.

Cuộc đời và sự nghiệp

1986–2004: Thiếu thời

Stefani Joanne Angelina Germanotta sinh ngày 28 tháng 3 năm 1986 tại Bệnh viện Lenox Hill ở Manhattan, Thành phố New York,[1] trong một gia đình Công giáo thuộc tầng lớp thượng trung lưu. Cả cha và mẹ cô đều có tổ tiên là người Ý.[2] Mẹ cô là Cynthia Louise (nhũ danh Bissett) làm nghề từ thiện và giám đốc kinh doanh, còn cha cô là doanh nhân Internet Joseph Germanotta,[3] và cô có một người em gái tên là Natali.[4] Gaga lớn lên ở khu Upper West Side của Manhattan, cô cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng cha mẹ cô xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp thấp hơn và đã làm việc chăm chỉ để có được mọi thứ như ngày hôm nay.[5][6] Từ năm 11 tuổi, cô đã theo học tại trường Công giáo La Mã tư thục dành cho nữ sinh Convent of the Sacred Heart.[7] Gaga mô tả bản thân là "rất kiên trì, rất chăm chỉ và rất có kỷ luật" nhưng cũng "hơi thiếu tự tin" khi còn học trung học. Cô tự thấy mình không phù hợp và thường bị chế giễu vì "quá gợi cảm hoặc quá kỳ cục".[8]

Gaga bắt đầu chơi piano từ lúc bốn tuổi sau khi mẹ cô đòi hỏi cô phải trở thành "một thiếu nữ có trình độ văn hóa", và cô đã theo học piano và luyện tập suốt cả thời thơ ấu của mình. Những bài học này đã dạy cho Gaga cách sáng tác nhạc bằng thính giác, điều mà cô thích làm hơn là việc đọc phổ nhạc. Cha mẹ Gaga khuyến khích cô theo đuổi âm nhạc và đăng ký cho cô tham gia Trại Nghệ thuật Sáng tạo.[9] Khi còn là thiếu niên, cô đã biểu diễn tại các đêm nhạc open mic.[10] Gaga đảm nhận vai chính Adelaide trong vở kịch Guys and Dolls và vai Philia trong vở kịch A Funny Thing Happened on the Way to the Forum tại trường trung học Regis.[11] Cô cũng học diễn xuất nhập tâm tại Học viện Sân khấu và Điện ảnh Lee Strasberg trong khoảng 10 năm.[12] Tuy nhiên, Gaga đã thử vai không thành công cho các chương trình ở New York kể cả cô có đóng một vai nhỏ là học sinh trung học trong tập phim năm 2001 của series The Sopranos có nhan đề "The Telltale Moozadell".[13][14] Cô sau đó chia sẻ về niềm yêu thích âm nhạc của mình:

Tôi không biết chính xác niềm đam mê âm nhạc của mình bắt nguồn từ đâu, nhưng đó là thứ dễ dàng đến với tôi nhất. Khi tôi chỉ mới ba tuổi, thậm chí là còn nhỏ hơn, mẹ tôi luôn kể câu chuyện xấu hổ về việc tôi phải rướn người lên để chơi những phím đàn như thế này bởi vì tôi còn quá nhỏ và thấp lùn để mà vươn tới tất cả những phím đàn. Tôi chỉ chơi được những phím ở phía bên dưới ... Tôi chơi piano thực sự rất giỏi, cho nên bản năng ban đầu của tôi là tập trung rất nhiều vào việc luyện tập đàn piano. Có thể tôi không phải là một vũ công bẩm sinh, nhưng tôi là một nhạc sĩ bẩm sinh. Đó là điều tôi tin rằng mình giỏi nhất.[15]

Ở tuổi 17 vào năm 2003, Gaga trở thành một trong số hai mươi người được nhập học sớm vào trường âm nhạc Collaborative Arts Project 21 trực thuộc Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York (NYU).[16] Cô đã từng nghiên cứu về âm nhạc và cải thiện kỹ năng sáng tác của mình bằng việc viết các bài luận về nghệ thuật, tôn giáo, các vấn đề xã hội và chính trị, bao gồm cả luận văn về các nghệ sĩ đại chúng.[17] Tuy nhiên, ở tuổi 19 vào năm 2005, Gaga đã nghỉ học đại học năm thứ hai để tập trung vào sự nghiệp âm nhạc và mong muốn được hồi sinh lại dòng nhạc pop lúc bấy giờ.[18][19] Cô cũng vào vai một khách hàng ngây thơ không hề hay biết mình đang bị đùa giỡn trong chương trình truyền hình thực tế chơi khăm Boiling Points của MTV.[20]

Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2014, Gaga tiết lộ rằng cô đã bị xâm hại năm 19 tuổi và sau đó phải trải qua trị liệu tâm lý và vật lý để giúp cô hồi phục.[21] Cô bị mắc chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) và cho rằng nguyên nhân là do sự việc đó, đồng thời cô ghi nhận sự hỗ trợ từ phía các bác sĩ, gia đình và bạn bè đã giúp cô vượt qua khó khăn.[22] Sau đó, Gaga còn tiết lộ thêm về việc cô bị hãm hiếp rằng "kẻ cưỡng hiếp tôi đã làm tôi có thai và bỏ mặc tôi ở xó nhà của bố mẹ tôi do tôi bị nôn mửa và phát ốm. Bởi vì tôi đã bị cưỡng hiếp nên tôi đã bị nhốt trong căn hộ riêng suốt nhiều tháng trời."[23]

2005–2007: Khởi đầu sự nghiệp

Năm 2005, Gaga đã thu âm hai bài hát cùng với nghệ sĩ hip-hop Melle Mel cho một cuốn sách nói đi kèm theo cuốn tiểu thuyết dành cho trẻ em có tựa đề The Portal in the Park.[24] Cô cũng thành lập một ban nhạc mang tên SGBand cùng một số người bạn từ NYU.[11][25] Họ biểu diễn tại nhiều sự kiện âm nhạc ở New York và trở thành một phần không thể thiếu của âm nhạc tại các câu lạc bộ ở khu Lower East Side.[11] Sau sự kiện New Songwriters Showcase của Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ tại the Cutting Room vào tháng 6 năm 2006, nhà tuyển trạch tài năng Wendy Starland đã giới thiệu Gaga cho nhà sản xuất âm nhạc Rob Fusari.[26] Fusari chính là người đã hợp tác với Gaga và hàng ngày đi từ New Jersey đến New York để giúp cô phát triển các bài hát và sáng tác nhạc mới.[27] Nhà sản xuất này cho biết họ bắt đầu hẹn hò vào tháng 5 năm 2006 và tự nhận mình là người đầu tiên gọi cô là "Lady Gaga," bắt nguồn từ bài hát "Radio Ga Ga" của Queen.[28] Mối quan hệ của họ kéo dài cho tới tháng 1 năm 2007.[29]

Gaga biểu diễn tại Lollapalooza vào năm 2007

Fusari và Gaga thành lập một công ty có tên "Team Lovechild, LLC" nhằm thúc đẩy sự nghiệp của cô.[28] Họ đã thu âm và sản xuất các ca khúc mang thể loại electropop và gửi chúng đến các nhà điều hành ngành công nghiệp âm nhạc. Người đứng đầu bộ phận Tìm kiếm và quản lý nghệ sĩ (A&R) tại hãng thu âm Def Jam Recordings là Joshua Sarubin đã phản hồi tích cực và sau khi được sự chấp thuận từ ông chủ của Sarubin là Antonio "L.A." Reid, Gaga đã ký hợp đồng với hãng thu Def Jam vào tháng 9 năm 2006.[30] Tuy nhiên, hợp đồng giữa cô và Def Jam ngắn ngủi, cô bị hãng đĩa chấm dứt hợp đồng sau ba tháng vào đầu năm 2007.[31][32] Gaga bắt đầu biểu diễn tại các chương trình neo-burlesque mà cô cho đó là đại diện cho sự tự do.[33] Trong thời gian này, cô gặp nghệ sĩ biểu diễn đã giúp định hình nên hình tượng trên sân khấu của cô là Lady Starlight.[34] Cặp đôi này bắt đầu biểu diễn tại các tụ điểm câu lạc bộ ở trung tâm thành phố như Mercury Lounge, the Bitter End và Rockwood Music Hall. Tiết mục nghệ thuật trình diễn trực tiếp "Lady Gaga and the Starlight Revue"[31] (hay còn được quảng cáo là "The Ultimate Pop Burlesque Rockshow") của họ là sự tôn vinh dành cho những màn trình diễn tạp kỹ của thập niên 1970.[35][36] Bọn họ còn biểu diễn tại lễ hội âm nhạc Lollapalooza vào năm 2007.[35]

Lúc đầu Gaga tập trung vào nhạc dance điện tử tiên phong, nhưng sau đó cô kết hợp thêm cả giai điệu pop và phong cách glam rock của David Bowie và Queen vào các bài hát của mình. Trong khi Gaga và Starlight biểu diễn, Fusari tiếp tục phát triển những bài hát mà ông đã tạo ra cùng cô, và gửi đến nhà sản xuất kiêm giám đốc điều hành thu âm Vincent Herbert.[37] Tháng 11 năm 2007, Herbert ký hợp đồng chiêu mộ Gaga vào hãng đĩa chi nhánh trực thuộc Interscope Records của mình là Streamline Records vừa mới được thành lập trong tháng đó.[38] Gaga sau này công nhận Herbert là người đã phát hiện ra chính cô.[39] Sau khi Gaga trở thành nhạc sĩ học việc trong thời gian thực tập tại Famous Music Publishing, cô đã ký một thỏa thuận xuất bản âm nhạc với Sony/ATV. Kết quả là cô đã được thuê để viết nhạc cho Britney Spears, New Kids on the Block, Fergie và the Pussycat Dolls.[40] Tại Interscope, nhạc sĩ Akon đã rất ấn tượng với khả năng ca hát của Gaga sau khi cô hát tham khảo cho một trong những ca khúc của anh trong phòng thu.[41] Akon đã thuyết phục chủ tịch kiêm CEO của Interscope Geffen A&M Records (một công ty con của Def Jam) là Jimmy Iovine để hình thành một thỏa thuận chung rằng Gaga cũng được ký hợp đồng với hãng đĩa của nam ca sĩ là KonLive, biến cô trở thành "ngôi sao chủ chốt" của anh.[42][43]

Cuối năm 2007, Gaga gặp nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất RedOne.[44] Cô đã hợp tác với anh trong phòng thu ghi âm suốt một tuần để thực hiện album đầu tay của mình. Sau đó, Gaga ký hợp đồng với hãng thu chi nhánh thuộc Interscope là Cherrytree Records do nhà sản xuất và nhạc sĩ Martin Kierszenbaum sáng lập; cô cũng viết bốn bài hát cùng với Kierszenbaum.[40] Mặc dù đã có được hợp đồng thu âm nhưng Gaga từng lên tiếng trước một số đài phát thanh cho rằng âm nhạc của cô quá "táo bạo", "thiên về nhạc dance" và "underground" đối với thị trường chính thống. Và rồi, cô đã đáp trả lại: "Tên tôi là Lady Gaga, tôi đã có mặt trên sân khấu âm nhạc từ nhiều năm, và tôi đang nói với bạn, đây chính là điều kế tiếp."[7]

2008–2010: Đột phá với The FameThe Fame Monster

Đến năm 2008, Gaga chuyển tới Los Angeles để làm việc sát sao với hãng đĩa của mình nhằm hoàn thành album đầu tay, The Fame, và thành lập một đội ngũ sáng tạo riêng cho mình có tên Haus of Gaga, được lấy cảm hứng từ The Factory của Andy Warhol.[45][46] The Fame được phát hành vào ngày 19 tháng 8 năm 2008,[47] đạt vị trí quán quân ở Áo, Canada, Đức, Ireland, Thụy Sĩ và Anh Quốc, cũng như lọt vào top 5 ở Úc và Mỹ.[48][49] Hai đĩa đơn đầu tiên của album, "Just Dance" và "Poker Face",[50] đạt vị trí thứ nhất tại Mỹ,[51] Úc,[52] Canada[53] và Anh Quốc.[54] "Poker Face" cũng đã trở thành đĩa đơn bán chạy nhất thế giới vào năm 2009, với 9,8 triệu bản được bán ra trong năm đó và đạt kỷ lục 83 tuần có mặt trên bảng xếp hạng Digital Songs của tạp chí Billboard.[55][56] Ba đĩa đơn khác gồm có "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)", "LoveGame" và "Paparazzi" đều được đã được phát hành từ album này;[57] Riêng "Paparazzi" thì đạt được vị trí số một tại Đức.[58] Phiên bản remix của các đĩa đơn từ The Fame ngoại trừ "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" nằm trong Hitmixes ra mắt vào tháng 8 năm 2009.[59] Tại giải Grammy lần thứ 52, The Fame và "Poker Face" lần lượt giành được giải thưởng Album nhạc điện tử/dance xuất sắc nhấtThu âm nhạc dance xuất sắc nhất.[60]

Gaga trong The Monster Ball Tour vào năm 2010. Chuyến lưu diễn này đã thu về 227 triệu USD và trở thành tour diễn có doanh thu cao nhất mà một nghệ sĩ mới ra mắt tự tổ chức biểu diễn.[61]

Sau khi Gaga biểu diễn mở màn trong chuyến lưu diễn Doll Domination Tour của the Pussycat Dolls vào năm 2009 tại châu Âu và châu Đại Dương, cô đã tự tổ chức chuyến lưu diễn toàn cầu của mình mang tên The Fame Ball Tour kéo dài từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2009.[62] Trong suốt thời gian đi lưu diễn khắp nơi trên thế giới, cô đã viết tám bài hát mới cho album tái phát hành của The Fame, tên gọi là The Fame Monster.[63] Những ca khúc mới này cũng được phát hành dưới dạng một EP độc lập vào ngày 18 tháng 11 năm 2009.[64] Đĩa đơn đầu tiên "Bad Romance" được phát hành trước đó một tháng[65] và đạt vị trí thứ nhất tại Canada[53] và Anh Quốc[54] cũng như vị trí thứ hai tại Mỹ[51] Úc[66] và New Zealand.[67] Ca khúc "Telephone" hợp tác với Beyoncé sau đó trở thành đĩa đơn thứ hai trong EP và là đĩa đơn thứ tư của Gaga đứng đầu bảng xếp hạng ở Anh Quốc.[68][69] Đĩa đơn thứ ba là "Alejandro"[70] đạt vị trí quán quân ở Phần Lan[71] từng gây tranh cãi vì video âm nhạc của nó bị Liên đoàn Công giáo xem là báng bổ tôn giáo.[72] Cả hai bài hát này đều đạt top 5 tại Mỹ.[51] Video cho "Bad Romance" đã trở thành video được xem nhiều nhất trên YouTube vào tháng 4 năm 2010 và vào tháng 10 cùng năm, Gaga trở thành người đầu tiên có hơn 1 tỷ lượt xem tổng cộng.[73][74] Tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2010, cô đã thắng được 8 giải thưởng từ 13 đề cử, trong đó có Video của năm cho "Bad Romance".[75] Cô là nghệ sĩ được đề cử nhiều nhất trong một năm và là người phụ nữ đầu tiên nhận được hai đề cử cho Video của năm tại cùng một lễ trao giải.[76] The Fame Monster giành giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất, còn "Bad Romance" giành giải Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhấtVideo âm nhạc hình thái ngắn xuất sắc nhất tại giải Grammy lần thứ 53.[77]

Năm 2009, Gaga đã lập kỷ lục 150 tuần có mặt trên UK Singles Chart và trở thành nghệ sĩ nữ được tải xuống nhiều nhất trong một năm ở Mỹ, với 11,1 triệu lượt tải về được tiêu thụ, và từ đó cô đã ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness.[78][79] Trên toàn thế giới, The FameThe Fame Monster đã bán được hơn 15 triệu bản, riêng The Fame Monster đã trở thành album bán chạy thứ hai trong năm 2010.[80][81][82] Sự thành công này đã giúp cho Gaga thuận lợi bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ hai của mình mang tên The Monster Ball Tour và phát hành The Remix, đó là bản thu cuối cùng của cô với hãng Cherrytree Records[83] và được coi là một trong những album remix bán chạy nhất mọi thời đại.[84][85] The Monster Ball Tour diễn ra từ tháng 11 năm 2009 đến tháng 5 năm 2011 và thu về tổng cộng 227,4 triệu USD, trở thành tour diễn có doanh thu cao nhất đối với một nghệ sĩ mới ra mắt tự tổ chức biểu diễn.[61][86] Những buổi diễn tại Madison Square Garden ở thành phố New York đã được ghi hình cho một chương trình truyền hình đặc biệt của HBO mang tên Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden.[87] Gaga cũng biểu diễn các bài hát từ album của mình tại Royal Variety Performance 2009, giải Grammy lần thứ 52 và giải Brit năm 2010.[88] Trước khi Michael Jackson qua đời, Gaga dự kiến góp mặt vào chuỗi buổi hòa nhạc This Is It bị hủy bỏ của ông tại O2 Arena ở Anh Quốc.[89]

Trong giai đoạn này, Gaga đã mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, hợp tác với công ty sản xuất thiết bị điện tử tiêu dùng Monster Cable Products nhằm tạo ra tai nghe nhét tai có đính đá quý mang tên Heartbeats by Lady Gaga.[90] Cô còn hợp tác với Polaroid vào tháng 1 năm 2010 trong vai trò giám đốc sáng tạo và ra mắt một bộ sản phẩm chụp ảnh có tên là Grey Label.[91][92] Sự hợp tác của nữ ca sĩ với nhà sản xuất thu âm trước đây và cũng là bạn trai cũ Rob Fusari của cô đã dẫn đến một vụ kiện tụng chống lại đội ngũ sản xuất Mermaid Music LLC của cô.[a] Trong thời điểm này, Gaga đã được xét nghiệm dương tính với bệnh lupus ban đỏ hệ thống, nhưng cô khẳng định mình không bị các triệu chứng làm ảnh hưởng và hy vọng vẫn duy trì được một lối sống lành mạnh.[95][96]

2011–2014: Born This Way, ArtpopCheek to Cheek

Tháng 2 năm 2011, Gaga phát hành đĩa đơn chủ đạo "Born This Way" nằm trong album phòng thu cùng tên của cô. Bài hát đã bán được hơn một triệu bản chỉ trong vòng năm ngày, xác lập kỷ lục Guinness thế giới cho đĩa đơn bán chạy nhất trên iTunes trong thời gian nhanh nhất.[97] "Born This Way" ra mắt ở ngay vị trí đầu bảng tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân thứ 1.000 trong lịch sử bảng xếp hạng này.[98] Đĩa đơn thứ hai "Judas" được phát hành hai tháng sau đó,[99] và "The Edge of Glory" được chọn làm đĩa đơn thứ ba.[100] Cả hai đều lọt vào top 10 ở Mỹ và Anh Quốc.[51][54] Khác với những tác phẩm trước đó của cô, video âm nhạc "The Edge of Glory" có chứa cảnh cô nhảy múa trên cầu thang thoát hiểm và đi bộ trên một con phố vắng vẻ mà không có vũ đạo phức tạp và vũ công phụ trợ.[101]

Gaga đã thực hiện nhiều buổi biểu diễn nhằm quảng bá cho album Born This Way tại Sydney, Úc

Album Born This Way được phát hành vào ngày 23 tháng 5 năm 2011,[99] đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 với doanh số tuần đầu tiên là 1,1 triệu bản.[102] Nó đã bán được 8 triệu bản trên toàn thế giới và nhận được ba đề cử Grammy, trong đó gồm cả đề cử Album của năm và đây cũng là lần thứ ba Gaga nhận được đề cử này.[103][104] Rolling Stone xếp Born This Way vào danh sách "500 album vĩ đại nhất mọi thời đại" vào năm 2020.[105] Hai đĩa đơn tiếp theo của Born This Way là "You and I" và "Marry the Night",[106] đạt vị trí cao nhất lần lượt là ở thứ 6 và thứ 29 trên bảng xếp hạng Mỹ.[51] Bài hát "Bloody Mary" vốn bị loại khỏi album, sau đó trở thành một thành công lớn và được phát hành làm đĩa đơn riêng vào năm 2022.[107] Trong quá trình ghi hình video âm nhạc cho "You and I", Gaga đã gặp và bắt đầu hẹn hò với nam diễn viên đã đóng vai người yêu của cô trong MV là Taylor Kinney vào tháng 7 năm 2011.[108][109] Cô cũng bắt đầu chuyến lưu diễn diễn Born This Way Ball vào tháng 4 năm 2012, lúc đầu dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 3 năm sau nhưng đành phải kết thúc sớm hơn một tháng bởi vì Gaga đã hủy bỏ các đêm diễn còn lại do bị dính chân thương rách sụn viền của hông bên phải và cần phải phẫu thuật.[110] Mặc dù số tiền hoàn lại cho những đêm diễn bị hủy bỏ ước tính lên đến 25 triệu USD,[111] nhưng chuyến lưu diễn đã thu về tổng cộng 183,9 triệu USD trên toàn cầu.[112]

Cũng trong năm 2011, Gaga đã hợp tác với Tony Bennett trong ca khúc "The Lady Is a Tramp" phiên bản nhạc jazz,[113] với Elton John trong ca khúc "Hello Hello" nằm trong bộ phim hoạt hình Gnomeo & Juliet,[114] và cùng với The Lonely Island và Justin Timberlake trong bài "3-Way (The Golden Rule)".[115] Cô cũng tổ chức một buổi hòa nhạc tại Sydney Town Hall ở Úc cùng năm nhằm quảng bá cho Born This Way và kỷ niệm sinh nhật lần thứ 65 của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton.[116] Tháng 11, Gaga xuất hiện trong một chương trình truyền hình đặc biệt dành cho Lễ Tạ ơn mang tên A Very Gaga Thanksgiving, thu hút 5,7 triệu người xem tại Hoa Kỳ và dẫn đến việc phát hành EP thứ tư của cô có tựa đề A Very Gaga Holiday.[117] Năm 2012, Gaga xuất hiện dưới dạng khách mời với phiên bản hoạt hình của chính cô trong một tập phim của The Simpsons mang tên "Lisa Goes Gaga",[118] cũng như ra mắt dòng nước hoa đầu tiên của mình mang tên Lady Gaga Fame, sau đó là dòng nước hoa thứ hai Eau de Gaga vào năm 2014.[b]

Gaga bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ ba mang tên Artpop vào đầu năm 2012, trong thời gian diễn ra chuyến lưu diễn Born This Way Ball; cô tạo ra album này nhằm mang lại cảm giác "như một đêm tại câu lạc bộ".[121][122][123] Tháng 8 năm 2013, Gaga phát hành đĩa đơn chủ đạo của album "Applause",[124] đạt vị trí thứ nhất tại Hungary, thứ 4 tại Hoa Kỳ và thứ 5 tại Anh Quốc.[51][54][125] Video lời bài hát cho "Aura" nằm trong album này đã được phát hành vào tháng 10 nhằm đồng hành với bộ phim Machete Kills do Robert Rodriguez làm đạo diễn, trong đó cô đóng vai một sát thủ tên là La Chameleon.[126] Bộ phim này nhận về nhiều đánh giá trái chiều và chỉ kiếm được chưa tới một nửa ngân sách 33 triệu USD.[127][128] Đĩa đơn thứ hai trong ArtpopDo What U Want" có sự góp giọng của R. Kelly và được phát hành vào cuối tháng đó,[129] đứng đầu bảng xếp hạng tại Hungary và đạt vị trí thứ 13 tại Hoa Kỳ.[51][130] Artpop được phát hành vào ngày 6 tháng 11 năm 2013 và nhận về những đánh giá trái chiều.[131] Helen Brown của The Daily Telegraph đã chỉ trích Gaga vì việc cô ra mắt một album khác xoay quanh sự nổi tiếng của mình và nghi ngờ về tính độc đáo của bản thu này, nhưng cũng cho rằng album "rất phù hợp để nhảy nhót".[132] Artpop đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 và bán được hơn 2,5 triệu bản trên toàn thế giới tính đến tháng 7 năm 2014.[133][134] Đĩa đơn thứ ba "G.U.Y." được phát hành vào tháng 3 năm 2014 và đạt vị trí thứ 76 tại Mỹ.[51][135]

Với kỷ nguyên Cheek to Cheek, Gaga (trong hình đang biểu diễn trong chuyến lưu diễn Cheek to Cheek Tour cùng với Tony Bennett) đã tiến hành một cuộc thay đổi toàn diện về hình ảnh của mình.[136]

Gaga làm MC trong một tập của Saturday Night Live vào tháng 11 năm 2013.[137] Sau khi tổ chức chương trình đặc biệt nhân dịp Lễ Tạ ơn thứ hai của mình trên kênh ABC mang tên Lady Gaga and the Muppets Holiday Spectacular, cô đã biểu diễn một phiên bản đặc biệt của "Do What U Want" cùng với Christina Aguilera trong mùa thứ năm của chương trình thực tế tìm kiếm tài năng Mỹ The Voice.[138][139] Tháng 3 năm 2014, Gaga đã tổ chức một buổi hòa nhạc lưu trú kéo dài bảy ngày nhằm kỷ niệm buổi diễn cuối cùng tại Roseland Ballroom ở New York trước khi nơi này đóng cửa.[140] Hai tháng sau, cô bắt đầu chuyến lưu diễn ArtRave: The Artpop Ball, phát triển từ các ý tưởng trong sự kiện quảng bá ArtRave của mình. Tour diễn này thu về 83 triệu USD và bao gồm các thành phố đã bị hủy từ lịch trình của chuyến lưu diễn Born This Way Ball trước đó.[141] Trong thời gian này, Gaga chia tay với người quản lý lâu năm của mình là Troy Carter do "sự khác biệt trong ý tưởng sáng tạo",[142] và đến tháng 6 năm 2014, cô và người quản lý mới Bobby Campbell đã gia nhập bộ phận quản lý nghệ sĩ thuộc Live Nation Entertainment mang tên Artist Nation.[143] Cô xuất hiện với vai quần chúng trong bộ phim Sin City: A Dame to Kill For của Rodriguez và được xác nhận là đại sứ xuân-hè 2014 của Versace trong chiến dịch mang tên "Lady Gaga For Versace".[144][145]

Tháng 9 năm 2014, Gaga phát hành một album nhạc jazz hợp tác với Tony Bennett có tựa đề Cheek to Cheek. Ý tưởng để thực hiện album này bắt nguồn từ tình bạn của cô với Bennett và niềm đam mê với nhạc jazz từ khi cô còn nhỏ.[146] Ông nhận xét rằng Gaga là "nghệ sĩ tài năng nhất mà tôi từng gặp".[147] Trước khi album được phát hành thì các đĩa đơn "Anything Goes" và "I Can't Give You Anything but Love" đã được cho ra mắt trước đó.[148] Cheek to Cheek nhận được những đánh giá tích cực nói chung;[149] Caroline Sullivan của The Guardian khen ngợi giọng hát của Gaga và Howard Reich của Chicago Tribune viết rằng "Cheek to Cheek mang đến trải nghiệm thực sự, từ đầu tới cuối".[150][151] Bản thu này đã trở thành album thứ ba liên tiếp của Gaga đạt vị trí quán quân trên Billboard 200,[152] và giành được giải Grammy cho Album giọng Pop Truyền thống xuất sắc nhất.[153] Cặp song ca đã ghi hình cho buổi hòa nhạc đặc biệt mang tên Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!,[154] và bắt đầu chuyến lưu diễn Cheek to Cheek Tour từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015.[155]

2015–2017: Truyện kinh dị Mỹ, Joanne và trình diễn tại Super Bowl

Tháng 2 năm 2015, Gaga đính hôn với Taylor Kinney.[156] Sau phản hồi không mấy nồng nhiệt đối với Artpop, Gaga đã bắt đầu đổi mới hình ảnh và phong cách của mình. Theo Billboard, sự thay đổi này bắt đầu từ việc cô phát hành Cheek to Cheek và nhận được nhiều sự chú ý sau màn trình diễn tại giải Oscar lần thứ 87, tại đây cô biểu diễn một liên khúc các bài hát từ bộ phim The Sound of Music nhằm tưởng nhớ đến Julie Andrews.[136] Billboard đánh giá đó là một trong những buổi biểu diễn xuất sắc nhất của cô và thu hút hơn 214.000 lượt tương tác mỗi phút ở khắp thế giới trên nền tảng Facebook.[157][158] Cô và Diane Warren đồng sáng tác ca khúc "Til It Happens to You" cho bộ phim tài liệu The Hunting Ground, và nó đã mang về cho hai người giải Vệ tinh cho ca khúc gốc trong phim hay nhất và một đề cử giải Oscar cùng hạng mục.[159] Gaga còn được Billboard vinh danh là Người phụ nữ của năm và được nhận giải Biểu tượng đương đại tại giải thưởng Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ thường niên năm 2015.[160][161]

Gaga đã luôn mong muốn được trở thành một diễn viên suốt cả thời thơ ấu của mình và ước mơ này đã được thực hiện sau khi cô tham gia diễn xuất trong Truyện kinh dị Mỹ: Khách sạn.[162] Khách sạn được phát sóng từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 1 năm 2016 và là mùa thứ năm của loạt phim truyền hình kinh dị tuyển tập Truyện kinh dị Mỹ. Trong mùa này, Gaga vào vai một chủ khách sạn tên là Elizabeth.[163][164] Tại giải Quả cầu vàng lần thứ 73, Gaga đã nhận được giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất – Miniseries hoặc phim truyền hình cho vai diễn của cô trong mùa phim đó.[162] Cô xuất hiện trong bộ phim thời trang năm 2015 của Nick Knight dành cho chiến dịch mùa xuân 2016 của Tom Ford[165] và là biên tập viên khách mời cho số thứ 99 của tạp chí thời trang V vào tháng 1 năm 2016, với 16 trang bìa khác nhau.[166] Cô nhận giải Biên tập viên của năm tại giải thưởng Thời trang Los Angeles.[167]

Gaga biểu diễn trong chuyến lưu diễn Joanne World Tour vào năm 2017

Tháng 2 năm 2016, Gaga đã hát quốc ca Hoa Kỳ tại Super Bowl 50,[168] hợp tác với IntelNile Rodgers nhằm trình diễn một tiết mục tưởng nhớ David Bowie tại giải Grammy lần thứ 58,[169] và cô còn hát "Til It Happens to You" tại giải Oscar lần thứ 88, tại đây cô được Joe Biden giới thiệu và đã biểu diễn bên cạnh 50 người từng bị tấn công tình dục.[170] Tháng 4, cô được vinh danh với giải Nghệ sĩ tại giải thưởng Giáo dục Jane Ortner do Bảo tàng Grammy tổ chức, giải thưởng này tôn vinh những nghệ sĩ đã thể hiện niềm đam mê và sự cống hiến trong việc giáo dục thông qua nghệ thuật.[171] Mối tình của cô với vị hôn phu Taylor Kinney kết thúc vào tháng 7; nữ ca sĩ sau đó cho biết sự nghiệp của cô đã ảnh hưởng tới mối quan hệ của cả hai.[172]

Gaga thủ vai một phù thủy tên là Scathach trong mùa thứ sáu của loạt phim Truyện kinh dị Mỹ: Thuộc địa Roanoke,[173] kéo dài từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2016.[174][175] Đến cuối cùng, vai diễn này của Gaga đã ảnh hưởng đến âm nhạc tương lai của cô, thúc đẩy cô thể hiện "nghệ thuật của bóng tối".[176] Tháng 9 năm 2016, cô phát hành đĩa đơn chủ đạo "Perfect Illusion" của album phòng thu thứ năm, đứng đầu bảng xếp hạng tại Pháp và đạt vị trí thứ 15 tại Mỹ.[177][178][179] Album mới của Gaga có tựa đề là Joanne được đặt theo tên người dì quá cố trở thành nguồn cảm hứng cho âm nhạc của Gaga.[180] Nó được phát hành vào ngày 21 tháng 10 năm 2016 và trở thành album quán quân thứ tư của Gaga trên bảng xếp hạng Billboard 200, giúp cô trở thành người phụ nữ đầu tiên có bốn lần đứng đầu bảng xếp hạng Hoa Kỳ trong thập niên 2010.[181] Đĩa đơn thứ hai "Million Reasons" của album được phát hành vào tháng sau và đạt vị trí thứ tư tại Mỹ.[179][182] Sau đó, cô phát hành phiên bản piano của ca khúc cùng tên album vào năm 2018,[183] và bài hát đã đem về cho Gaga giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất.[184] Để quảng bá cho album, Gaga đã tổ chức chuyến lưu diễn Dive Bar Tour với ba đêm diễn.[185]

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2017, Gaga tham gia biểu diễn với tư cách là nghệ sĩ chính trong chương trình nghỉ giữa hiệp Super Bowl LI. Màn trình diễn của cô có sự góp mặt của một nhóm hàng trăm chiếc máy bay không người lái mang theo đèn thắp sáng bầu trời phía trên Sân vận động NRG của Houston, và đó cũng là lần đầu tiên mà thiết bị bay không người lái xuất hiện trong một chương trình Super Bowl.[186] Buổi biểu diễn đã thu hút 117,5 triệu người xem tại Hoa Kỳ, vượt qua con số 111,3 triệu người xem của trận đấu và trở thành chương trình nghỉ giữa hiệp Super Bowl được xem nhiều thứ ba cho đến nay.[187] Buổi diễn đã dẫn tới sự gia tăng đột biến 410.000 lượt tải xuống bài hát của Gaga tại Hoa Kỳ và giúp cô nhận được đề cử giải Emmy cho hạng mục Tập đặc biệt thể loại tạp kỹ, âm nhạc hoặc hài xuất sắc nhất.[188][189] CBS Sports xếp màn trình diễn của cô là buổi biểu diễn xuất sắc thứ hai trong lịch sử các chương trình nghỉ giữa hiệp Super Bowl.[190] Tháng 4, Gaga là nghệ sĩ biểu diễn chính tại Coachella Valley Music and Arts Festival.[191] Cô cũng phát hành một đĩa đơn độc lập mang tên "The Cure", lọt vào top 10 ở Úc.[192][193] Bốn tháng sau, Gaga bắt đầu chuyến lưu diễn Joanne World Tour được công bố sau chương trình nghỉ giữa hiệp Super Bowl LI.[194] Quá trình tạo ra album Joanne và chuẩn bị cho màn trình diễn nghỉ giữa hiệp của Gaga đã được ghi lại trong bộ phim tài liệu mang tên Gaga: Five Foot Two được công chiếu trên Netflix vào tháng 9 cùng năm.[195] Xuyên suốt bộ phim, người xem có thể thấy cảnh cô bị đau mãn tính, về sau được tiết lộ là do hệ quả của một tình trạng bệnh kéo dài gọi là đau cơ xơ hóa.[196] Tháng 2 năm 2018, căn bệnh này buộc Gaga phải hủy 10 đêm diễn cuối cùng trong Joanne World Tour, với tổng doanh thu là 95 triệu USD từ việc bán được 842.000 vé.[197][198]

2018–2019: Vì sao vụt sáng và buổi hòa nhạc lưu trú ở Las Vegas

Gaga tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2018 trước buổi trình chiếu phim Vì sao vụt sáng, đây là vai chính đầu tiên của cô trong một bộ phim.[199]

Tháng 3 năm 2018, Gaga đã ủng hộ cuộc tuần hành kiểm soát súng đạn March for Our Lives tại Washington, D.C.,[200] và phát hành phiên bản cover ca khúc "Your Song" của Elton John nằm trong album tưởng nhớ của ông mang tên Revamp.[201] Trong năm đó, cô vào vai nữ ca sĩ gặp khó khăn Ally trong bộ phim lãng mạn âm nhạc của Bradley Cooper có tựa đề Vì sao vụt sáng, bản làm lại của bộ phim cùng tên năm 1937. Phim kể về mối quan hệ của Ally với ca sĩ Jackson Maine (do Cooper đóng), mối quan hệ này trở nên căng thẳng khi sự nghiệp của cô bắt đầu làm lu mờ anh. Bộ phim nhận được sự hoan nghênh từ các nhà phê bình, với nhận định rằng bộ phim có "dàn diễn viên chính hấp dẫn, đạo diễn khéo léo, và một câu chuyện tình yêu cảm động".[202] Cooper đã tiếp cận Gaga sau khi xem cô biểu diễn tại một sự kiện gây quỹ nghiên cứu về ung thư. Gaga vốn là một người ngưỡng mộ các tác phẩm của Cooper và cô đã đồng ý tham gia dự án này do nội dung phim có miêu tả chứng nghiện ngập và trầm cảm.[203][204] Vì sao vụt sáng được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Venice 2018 và được phát hành trên toàn thế giới vào tháng 10 cùng năm.[205] Diễn xuất của Gaga đã nhận được sự khen ngợi từ các nhà phê bình điện ảnh, Peter Bradshaw của The Guardian mô tả bộ phim là "cực kỳ đáng xem" và nhấn mạnh rằng "khả năng của Gaga để trở thành một phần người bình thường, một phần nữ hoàng ngôi sao ngoài hành tinh hoạt động ở mức độ cao nhất";[206] Stephanie Zacharek của Time cũng đánh giá cao "màn thể hiện ngoạn mục" của Gaga và cho rằng cô rất "lôi cuốn" mà không cần đến lớp trang điểm, tóc giả và trang phục như thường thấy.[207] Với vai diễn này, Gaga đã giành được giải thưởng Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnhgiải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, cũng như nhận được đề cử giải Oscar, giải Quả cầu vàng, giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnhgiải BAFTA cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.[208]

Gaga và Cooper đồng sáng tác và sản xuất hầu hết các ca khúc trong nhạc phim của Vì sao vụt sáng, và cô đã đề nghị họ biểu diễn trực tiếp trong bộ phim.[209] Đĩa đơn chủ đạo album nhạc phim là "Shallow" do cả hai thể hiện đã được phát hành vào ngày 27 tháng 9 năm 2018[210] và đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Anh Quốc và Hoa Kỳ.[211] Album nhạc phim gồm có 34 bài hát tổng cộng, trong đó có 17 bài hát gốc và đã nhận được những đánh giá tích cực;[212] Mark Kennedy của The Washington Post gọi album đó là một "kỳ quan năm sao" và Ben Beaumont-Thomas của The Guardian thì xem như đây là một "tác phẩm cổ điển tức thời chất chứa đầy sức mạnh cảm xúc của Gaga".[213][214] Về mặt thương mại, album nhạc phim này đã ra mắt ở vị trí quán quân tại Mỹ, giúp cho Gaga trở thành người phụ nữ đầu tiên có 5 album đứng đầu tại Mỹ trong thập niên 2010, đồng thời phá vỡ kỷ lục của Taylor Swift để trở thành nữ nghệ sĩ có nhiều album đứng đầu nhất trong thập niên này;[215] tuy nhiên Swift đã bắt kịp cô vào năm 2019.[216] Nhạc phim "Vì sao vụt sáng" cũng đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Canada, Ireland, New Zealand, Thụy Sĩ và Anh Quốc.[217] Tính đến tháng 6 năm 2019, album nhạc phim đã bán được hơn sáu triệu bản trên toàn thế giới.[218] Album này đã mang về cho Gaga 4 giải Grammy—Tác phẩm âm nhạc biên soạn xuất sắc nhất cho phim ảnh, Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhấtCa khúc nhạc phim hay nhất cho "Shallow", cũng như "I'll Never Love Again" giành chiến thắng ở cùng hạng mục Ca khúc nhạc phim hay nhất một năm sau đó—và giải BAFTA cho Nhạc phim hay nhất.[184][219][220] "Shallow" còn mang về cho cô giải Oscar, giải Quả cầu vàng, giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh và giải Vệ tinh cho Ca khúc trong phim hay nhất.[208] Gaga đã trình diễn trực tiếp bài hát này tại giải Grammy lần thứ 61giải Oscar lần thứ 91.[221][222]

Tháng 10, Gaga thông báo đính hôn với người đại diện tài năng Christian Carino mà cô đã gặp vào đầu năm 2017.[223] Tuy nhiên, họ đã chia tay vào tháng 2 năm 2019.[224] Gaga tổ chức buổi hòa nhạc lưu trú mang tên Lady Gaga Enigma + Jazz & Piano tại Nhà hát MGM Park ở Las Vegas.[225] Buổi hòa nhạc này bao gồm hai dạng chương trình: Enigma, tập trung vào yếu tố sân khấu và những bản hit lớn của Gaga,[226] và Jazz & Piano, gồm có các ca khúc từ Great American Songbook và phiên bản cắt ngắn của các bài hát của Gaga. Enigma bắt đầu vào tháng 12 năm 2018 và Jazz & Piano vào tháng 1 năm 2019.[227] Gaga cho ra mắt dòng mỹ phẩm thuần chay của riêng mình là Haus Laboratories độc quyền trên Amazon vào tháng 9 năm 2019, gồm có 40 sản phẩm như bút kẻ mắt dạng lỏng, son bóng và miếng dán mặt nạ. Bộ sản phẩm này đã đứng đầu danh sách sản phẩm son môi bán chạy nhất trên Amazon.[228]

2020–nay: Chromatica, Love for Sale và những dự án phim tiếp theo

Vào tháng 2 năm 2020, Gaga bắt đầu mối quan hệ với doanh nhân Michael Polansky.[229] Cô phát hành album phòng thu thứ sáu Chromatica vào ngày 29 tháng 5 năm 2020 và nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới phê bình.[230][231] Chromatica đứng đầu bảng xếp hạng Hoa Kỳ, trở thành album quán quân thứ sáu liên tiếp của cô trong nước và cũng đạt vị trí quán quân tại nhiều vùng lãnh thổ khác bao gồm Úc, Canada, Pháp, Ý và Vương quốc Anh.[232] Trước khi Chromatica được phát hành, Gaga đã cho ra mắt hai đĩa đơn "Stupid Love" vào ngày 28 tháng 2 năm 2020,[233] và "Rain on Me", hợp tác với Ariana Grande vào ngày 22 tháng 5.[234] "Rain on Me" thắng được hạng mục Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất tại giải Grammy lần thứ 63 và ra mắt ở vị trí số một tại Mỹ, giúp Gaga trở thành người thứ ba đứng đầu bảng xếp hạng của quốc gia này trong thập niên 2000, 2010 và 2020.[235][236] Tại buổi lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2020, Gaga giành được năm giải thưởng, bao gồm giải Tricon đầu tiên nhằm vinh danh những nghệ sĩ đạt được thành tựu trong nhiều lĩnh vực khác nhau của ngành giải trí.[237] Vào tháng 9 năm 2020, cô xuất hiện trong chiến dịch quảng cáo video cho nước hoa Voce Viva của Valentino và biểu diễn phiên bản tinh giản của ca khúc "Sine from Above" nằm trong album Chromatica cùng với một nhóm người mẫu.[238]

Gaga biểu diễn tại The Chromatica Ball vào năm 2022, đây là chuyến lưu diễn toàn sân vận động đầu tiên của cô.[239]

Tại lễ nhậm chức Tổng thống thứ 46 Hoa Kỳ của Joe Biden vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, Gaga đã hát quốc ca Hoa Kỳ.[240] Tháng 2 năm 2021, người dắt chó của cô là Ryan Fischer đã phải nhập viện sau khi bị bắn ở Hollywood. Hai chú chó bò Pháp Koji và Gustav của Gaga đã bị bắt đi, còn chú chó thứ ba tên Miss Asia thì may mắn trốn thoát và được cảnh sát tìm thấy. Gaga sau đó đã đề xuất một khoản tiền thưởng trị giá 500.000 USD để tìm lại hai chú chó bị bắt cóc của cô.[241] Vào ngày 26 tháng 2, một phụ nữ đã đưa hai chú chó đến đồn cảnh sát tại Los Angeles và may mắn là chúng đều không bị thương. Ban đầu, cảnh sát thành phố Los Angeles cho rằng người phụ nữ đưa chó dường như không liên quan đến vụ nổ súng,[242][243] nhưng vào ngày 29 tháng 4, cô ta bị phát hiện là một trong năm người bị buộc tội trong vụ nổ súng và trộm cắp lần này.[244] Tháng 12 năm 2022, hung thủ nổ súng bắn người dắt chó của Gaga tên James Howard Jackson đã bị kết án 21 năm tù giam.[245]

Tháng 4 năm 2021, Gaga hợp tác với thương hiệu rượu sâm panh Dom Pérignon và xuất hiện trong một quảng cáo do Nick Knight thực hiện.[246] Ngày 3 tháng 9, cô phát hành album remix thứ ba của mình mang tên Dawn of Chromatica[247] và tiếp sau đó vào ngày 30 tháng 9, cô phát hành album hợp tác thứ hai và cũng là lần cuối cùng với Tony Bennett có tựa đề Love for Sale.[248] "Love for Sale" đã nhận được nhiều đánh giá tích cực và ra mắt ở vị trí thứ tám tại Mỹ.[249][250] Nhằm thực hiện chiến dịch quảng bá của album, chương trình truyền hình đặc biệt mang tên One Last Time: An Evening with Tony Bennett and Lady Gaga được phát hành vào tháng 11 năm 2021 trên đài CBS, gồm những màn trình diễn được chọn lọc từ các buổi diễn của họ vào ngày 3 và 5 tháng 8 tại Radio City Music Hall.[251][252] Buổi biểu diễn ghi hình khác cho MTV Unplugged của cặp song ca được phát hành vào tháng 12 cùng năm.[253] Tại buổi lễ trao giải Grammy lần thứ 64, Love for Sale mang về cho Gaga và Bennett giải Album giọng Pop Truyền thống xuất sắc nhất.[254]

Sau khi Gaga góp mặt trong chương trình truyền hình đặc biệt Những người bạn: Tái ngộ, trong đó cô biểu diễn ca khúc "Smelly Cat" cùng với Lisa Kudrow,[255] cô thủ vai Patrizia Reggiani, người bị kết tội cho thuê sát thủ để mưu sát chồng cũ và cựu giám đốc nhãn hiệu thời trang Gucci là Maurizio Gucci (do Adam Driver đóng) trong bộ phim tiểu sử tội phạm của Ridley Scott có tựa đề Gia tộc Gucci.[256][257] Để đảm nhận được vai diễn, Gaga đã phải học cách nói giọng Ý, đóng vai nhân vật trong suốt 18 tháng và dành ra 9 tháng trong khoảng thời gian đó để nói giọng địa phương.[258] Chính lối diễn này đã ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của Gaga và cô đã phải nhờ một y tá điều trị tâm thần đi cùng, vào giai đoạn cuối của quá trình ghi hình tại phim trường.[259] Bộ phim được phát hành vào ngày 24 tháng 11 năm 2021 và nhận về những đánh giá trái chiều, tuy nhiên các nhà phê bình vẫn khen ngợi khả năng diễn xuất "hoàn hảo đến từng chi tiết" của Gaga.[260] Cô giành được giải của Hội phê bình phim New York cũng như được đề cử cho giải BAFTA, giải Lựa chọn của Nhà phê bình Điện ảnh, giải Quả cầu vàng và giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.[261] Tiếp đến, Gaga đồng sáng tác bài hát "Hold My Hand" cho bộ phim năm 2022 Phi công siêu đẳng Maverick,[262] và cũng tham gia soạn nhạc phim cùng Hans Zimmer và Harold Faltermeyer.[263] Cô đã trình diễn trực tiếp "Hold My Hand" ở giải Oscar lần thứ 95, tại đây bài hát này đã được đề cử cho hạng mục Ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất.[264] "Hold My Hand" cũng đã giúp Gaga giành chiến thắng lần thứ ba tại giải Vệ Tinh ở hạng mục Ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất.[265] Tháng 7 năm 2022, cô bắt đầu chuyến lưu diễn sân vận động The Chromatica Ball,[266] với tổng cộng hai mươi đêm diễn và mang về doanh thu 112,4 triệu USD trên tổng số 834.000 vé được bán ra.[239] Đến cuối năm, Gaga trở thành nữ nghệ sĩ có doanh thu lưu diễn cao nhất năm 2022.[267]

Tháng 4 năm 2023, Gaga được Tổng thống Joe Biden bổ nhiệm làm đồng chủ tịch Ủy ban Tổng thống về Nghệ thuật và Nhân văn.[268] Cô hợp tác với the Rolling Stones trong bài hát "Sweet Sounds of Heaven" thuộc album Hackney Diamonds (2023) của ban nhạc, cùng với sự góp giọng của Stevie Wonder.[269] Gaga sẽ đóng chung với Joaquin Phoenix trong bộ phim Joker: Folie à Deux, dự kiến ra mắt vào năm 2024.[270]

Phong cách nghệ thuật

Ảnh hưởng

Những nhạc sĩ như MadonnaDavid Bowie đã có ảnh hưởng đến Gaga.

Gaga từ lúc nhỏ cho đến trưởng thành đã từng thưởng thức các tác phẩm âm nhạc của nhiều nghệ sĩ như Michael Jackson,[271] the Beatles, Stevie Wonder, Queen, Bruce Springsteen, Pink Floyd, Led Zeppelin, Whitney Houston,[272] Elton John, Prince,[273][274] En Vogue, TLC,[275] Christina Aguilera,[276] Janet Jackson[277] và Blondie.[278] Tất cả những nghệ sĩ trên đã có sức ảnh hưởng đến âm nhạc của cô.[279] Nguồn cảm hứng sáng tác âm nhạc của Gaga trải dài từ các ca sĩ dance-pop như Madonna và Michael Jackson cho đến những nghệ sĩ glam rock như David Bowie và Freddie Mercury. Cô còn lấy ý tưởng từ nghệ thuật sân khấu của nghệ sĩ đại chúng Andy Warhol và cội nguồn biểu diễn trên sân khấu nhạc kịch của chính bản thân cô để làm đề tài âm nhạc của mình.[42][280] Gaga thường được so sánh với Madonna, và Madonna cũng từng cho rằng bà đã liên tưởng ngược lại tới chính mình sau khi chứng kiến hình ảnh của Gaga.[281] Gaga cho biết cô muốn thực hiện một cuộc cách mạng nhạc pop giống như Madonna đã từng làm.[282] Cô thừa nhận bản thân cô cũng từng lấy những ban nhạc heavy metal như Iron Maiden, Black Sabbath và Marilyn Manson làm nguồn cảm hứng.[283][284][285][286] Cô còn công nhận Beyoncé là nguồn cảm hứng quan trọng để giúp cô theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.[287]

Về phong cách, mẹ của Gaga là người đã truyền niềm đam mê thời trang đến con gái và cho tới bây giờ, Gaga bảo rằng thời trang đã trở thành một yếu tố quan trọng và được lồng ghép vào âm nhạc của cô.[19][288] Gaga từng được so sánh với Leigh Bowery, Isabella Blow và Cher.[289][290] Cô cho biết khi còn nhỏ, cô đã học hỏi và biến phong cách thời trang của Cher thành phong cách của riêng mình.[290] Gaga kết thân với nhà thiết kế thời trang người Anh Alexander McQueen không lâu trước khi ông tự sát vào năm 2010, và cô trở nên nổi tiếng vì đã diện các thiết kế của ông, đặc biệt là những đôi giày armadillo cao vút.[95][291] Cô còn coi nhà thiết kế Donatella Versacenàng thơ của mình và Versace đã gọi Gaga là "Donatella trẻ trung".[292][293] Ngoài ra, Công nương Diana là người đã từng ảnh hưởng đến Gaga và cũng là một người mà Gaga ngưỡng mộ lúc nhỏ.[294]

Gaga đã gọi người ủng hộ y học thay thế Ấn Độ Deepak Chopra là "nguồn cảm hứng thực sự",[295] và cô từng trích dẫn lại nội dung từ bên trong cuốn sách Sáng tạo của nhà lãnh đạo Ấn Độ Osho trên Twitter. Gaga cho biết tác phẩm của Osho đã ảnh hưởng tới cô trong việc đánh giá cao sự nổi loạn thông qua sự sáng tạo và bình đẳng.[296]

Phong cách và chủ đề âm nhạc

Chính vì Gaga thường hay thử nghiệm những ý tưởng và hình ảnh mới mẻ xuyên suốt sự nghiệp của mình nên các nhà phê bình đã phải liên tục phân tích và nghiên cứu kỹ lưỡng phong cách âm nhạc và trình diễn của cô cho đến ngày nay. Gaga cho biết việc liên tục đổi mới là một cách để "giải phóng" bản thân, và đó cũng chính là điều mà cô đã hướng tới từ lúc nhỏ.[297] Gaga kết hợp nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, đặc biệt là sự kết hợp các yếu tố của rock vào trong âm nhạc pop và dance của mình. Ngoài ra, cô cũng đã dấn thân sang thể loại nhạc jazz và các dòng nhạc khác không phải pop.[298] Gaga sở hữu chất giọng nữ trầm và khoảng âm vực trải dài từ B2 đến B5.[299][300][301] Cô đã thường xuyên thay đổi kiểu giọng của mình và coi Born This Way là album "có giọng ca vượt quá khả năng mà tôi đã luôn làm được".[302][303] Entertainment Weekly đã đúc kết lại về giọng ca của Gaga rằng: "Có một trí thông minh cảm xúc vô cùng lớn trong cách cô ấy sử dụng giọng ca của bản thân. Rất hiếm khi cô ấy lấn át bài hát bằng khả năng thanh nhạc của mình, mà thay vào đó cô ấy nhận ra rằng nghệ thuật nằm ở sự tinh tế chứ không chỉ là sức mạnh đến từ phổi."[304]

Theo Evan Sawdey của PopMatters, Gaga "khiến bạn cảm thấy muốn nhún nhảy theo một cách tự nhiên mà gần như không cần phải cố gắng" với album The Fame.[305] Gaga tin rằng "mọi bài hát hay đều có thể biểu diễn được bằng piano và nghe vẫn như một bản hit".[306] Simon Reynolds đã viết vào năm 2010 rằng "mọi thứ về Gaga đều xuất phát từ electroclash ngoại trừ âm nhạc. Yếu tố đó không phải là âm nhạc đặc trưng của thập niên 1980, mà chỉ đơn giản là nhạc pop vô cùng bắt tai của thập niên 2000, được phủ thêm lớp Auto-Tune và phần beat mang hơi hướng R&B."[307]

Các bài hát của Gaga trải rộng trên nhiều nội dung và chủ đề: The Fame nói về ham muốn trở thành ngôi sao, trong khi album tiếp theo The Fame Monster thể hiện mặt tối của sự nổi tiếng thông qua phép ẩn dụ về quái vật. The Fame là một album electropop và dance-pop chịu ảnh hưởng từ nhạc pop thập niên 1980 và Europop thập niên 1990,[308] trong khi The Fame Monster thì cho thấy khẩu vị của Gaga trong việc kết hợp các yếu tố như "arena glam thập niên 1970, disco vui tươi của ABBA và những bản retro ngọt ngào như của Stacey Q".[309] Born This Way có ca từ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha cũng như mang những chủ đề thường thấy trong phong cách viết nhạc gây tranh cãi của Gaga như tình dục, tình yêu, tôn giáo, tiền bạc, ma túy, bản sắc, giải phóng, giới tính, tự do và chủ nghĩa cá nhân.[310] Album này sử dụng những thể loại nhạc mới như rock điện tửtechno.[311]

Các chủ đề trong Artpop xoay quanh quan điểm cá nhân của Gaga về danh tiếng, tình yêu, tình dục, chủ nghĩa nữ quyền, tự trao quyền, vượt qua cơn nghiện ngập và phản ứng trước sự quan tâm thái quá của truyền thông.[312] Billboard mô tả Artpop là một album "kết hợp hài hòa các yếu tố âm nhạc từ R&B, techno, disco và rock".[313] Trong khi đó, với Cheek to Cheek, Gaga đã thử sức sang thể loại nhạc jazz.[314] Joanne được sáng tác dựa vào đời sống cá nhân của Gaga và sử dụng nhiều dòng nhạc như đồng quê, funk, pop, dance, rock, nhạc điện tử và folk.[315] Nhạc phim Vì sao vụt sáng chứa đựng các yếu tố của blues rock, đồng quê và bubblegum pop.[213] Billboard mô tả rằng lời bài hát của album nhạc phim muốn nói về mong muốn thay đổi, sự đấu tranh, tình yêu, lãng mạn và sự gắn kết, đồng thời cho rằng âm nhạc là "bất di bất dịch, giàu cảm xúc, thô kệch và chân thành. Chúng giống như những bài hát được viết bởi những nghệ sĩ, mà khi nói một cách thành thật là, đã trải qua nhiều khó khăn nhưng vẫn chạm đến trái tim người nghe một cách sâu sắc."[316] Gaga tiếp đó trở lại với cội nguồn gốc rễ dance-pop của mình qua album Chromatica với nội dung bàn về những trăn trở của cô khi phải đương đầu với sức khỏe tinh thần của chính bản thân.[317] Cuối cùng, album hợp tác thứ hai của cô với Tony Bennett Love for Sale chứa đựng các tác phẩm tưởng nhớ đến Cole Porter.[318]

Video và sân khấu

Gaga đang biểu diễn với phong cách "dính đầy máu" vào năm 2010

Mọi người thường mô tả các video âm nhạc của Gaga giống như những bộ phim ngắn là do cô thay đổi trang phục liên tục và mang hình ảnh gợi cảm.[319] Video âm nhạc của bài hát "Telephone" đã mang về cho Gaga kỷ lục Guinness thế giới cho Số lần Sản phẩm xuất hiện nhiều nhất trong một Video.[320] Theo tác giả Curtis Fogel, cô đã tận dụng các yếu tố gây sốc như hành vi tình dục bondage (en), bạo dâm và khổ dâm (sadomasochism) cũng như làm nổi bật lên những chủ đề nữ quyền phổ biến. Chủ đề chính trong các video âm nhạc của cô là tình dục, bạo lực và quyền uy. Cô tự gọi mình là "người có một chút nữ quyền" và khẳng định rằng cô "đang truyền cảm hứng tình dục cho phụ nữ".[321] Billboard xếp cô ở vị trí thứ sáu trong danh sách "100 nghệ sĩ video âm nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại" vào năm 2020, khẳng định rằng "cái tên 'Lady Gaga' sẽ mãi mãi gắn liền với những video âm nhạc mang tính định hình văn hóa".[322]

Tạp chí Rolling Stone đã từng công nhận Gaga là "một trong những nghệ sĩ âm nhạc vĩ đại nhất còn sống".[323] Gaga tự gọi mình là người cầu toàn khi nhắc đến những màn trình diễn phức tạp của bản thân.[324] Các buổi biểu diễn của cô được diễn tả là "vô cùng thú vị và đầy đổi mới"[325] và cảnh máu bắn ra trong bài hát "Paparazzi" tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009 đã được MTV News mô tả là "đẹp mắt đến rợn người".[326] Cô tiếp tục sử dụng chủ đề dính máu trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour, gây ra cuộc biểu tình phản đối tại Anh từ phía các nhóm gia đình và người hâm mộ sau vụ xả súng tại Cumbria, vụ án mà một tài xế taxi đã giết chết 12 người rồi tự sát.[327] Tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2011, Gaga đã sử dụng nhân cách nam giới (tên là Jo Calderone), ăn mặc kiểu drag và diễn thuyết về tình yêu, sau đó cô bắt đầu biểu diễn ca khúc "You and I".[328] Laurieann Gibson từng là biên đạo múa kiêm giám đốc sáng tạo của Gaga, đã cung cấp nội dung ý tưởng cho các buổi biểu diễn và video âm nhạc của cô trong suốt bốn năm trước khi người trợ lý Richard Jackson thay thế bà vào năm 2014.[329]

Trong một bài viết của tạp chí Billboard vào tháng 10 năm 2018, Rebecca Schiller đã dõi theo dòng lịch sử video của Gaga từ "Just Dance" đến khi phát hành Vì sao vụt sáng. Schiller nhận thấy rằng sau kỷ nguyên Artpop, Gaga đã học cách tiếp cận âm nhạc đơn giản hơn thông qua các video âm nhạc của những đĩa đơn nằm trong album Joanne và cô nhà báo đã lấy video âm nhạc đĩa đơn chủ đạo "Perfect Illusion" làm ví dụ đơn cử, trong đó có cảnh nữ ca sĩ từ bỏ "việc mặc các trang phục phức tạp và thay vào đó diện áo phông và quần short trong lúc cố biểu diễn bài hát tại một bữa tiệc trên sa mạc". Hình tượng này tiếp tục được duy trì qua các buổi biểu diễn của cô trong bộ phim cũng như cá tính trên sân khấu của cô.[330] Trong bài đánh giá về The Chromatica Ball năm 2022, Chris Willman của Variety viết rằng Gaga "đáng lý là đã có thể đã khai thác một cách tối đa hơn nữa tính chân thực của bản thân" sau khi phát hành JoanneVì sao vụt sáng, nhưng thay vào đó cô "đã quyết định là vẫn sẽ duy trì tính lập dị của mình — hoặc ít nhất cũng đủ kỳ quặc để đảm bảo sự cân bằng cần thiết cho những khía cạnh nghệ thuật nghiêm túc hơn của cô".[331]

Hình tượng công chúng

Năm 2010, tám tượng sáp của Gaga đã được trưng bày tại bảo tàng Madame Tussauds.[332]

Gaga thường gặp những phản ứng trái chiều về phong cách âm nhạc, gu thời trang và cá tính của cô. Bởi vì cô có sức ảnh hưởng tới nền văn hóa hiện đại và nhanh chóng nổi tiếng trên toàn cầu nên nhà xã hội học Mathieu Deflem của Đại học South Carolina đã mở một khóa học có tiêu đề "Lady Gaga và Xã hội học về sự nổi tiếng" kể từ đầu năm 2011, với mục tiêu là làm sáng tỏ "một số khía cạnh có liên quan đến xã hội học về sự nổi tiếng của Lady Gaga".[333] Lúc Gaga có cuộc gặp gỡ ngắn với tổng thống khi ấy là Barack Obama tại một sự kiện gây quỹ Human Rights Campaign, ông Obama cảm thấy buổi đối thoại này thật sự "đáng sợ" vì Gaga mang chiếc giày cao gót có đế cao tới 16 inch, khiến cho cô trở thành phụ nữ cao nhất trong phòng.[334] Trong cuộc phỏng vấn với Barbara Walters nằm trong chương trình đặc biệt hàng năm của ABC News mang tên 10 Most Fascinating People vào năm 2009, Gaga bác bỏ truyền thuyết đô thị cho rằng cô là người liên giới tính (intersex). Cùng lúc trả lời câu hỏi về vấn đề đó, cô đã bộc lộ niềm yêu thích đối với tính ái nam ái nữ (androgyny).[335]

Phong cách ăn mặc đầy lập dị của Gaga đã trở thành một khía cạnh quan trọng trong việc định hình cá tính của cô.[289][292] Trong giai đoạn đầu sự nghiệp, các phương tiện truyền thông đã so sánh sự lựa chọn thời trang của cô với những nhân vật tiêu biểu như Christina Aguilera.[292] Năm 2011, 121 phụ nữ đã tập trung tại lễ trao giải Grammy và ăn mặc trang phục giống như những bộ mà Gaga từng mặc trước đây, và họ lập kỷ lục Guinness thế giới năm 2011 cho Cuộc tụ họp những người hóa trang thành Lady Gaga đông nhất.[97] Global Language Monitor đã xếp "Lady Gaga" là Từ khoá thời trang hàng đầu, với thương hiệu "không quần" của cô đứng ở vị trí thứ ba.[336] Entertainment Weekly liệt kê trang phục của cô vào danh sách "xuất sắc nhất" thập kỷ và nói rằng cô "đã đưa nghệ thuật biểu diễn trở thành xu hướng chủ đạo".[337] People xướng cô ở vị trí thứ nhất trong danh sách "Những ngôi sao mặc đẹp nhất năm 2021", viết rằng Gaga đã "diện những thiết kế thời trang cao cấp và sải bước trên đường phố, từ bộ đầm seersucker có hình dáng độc đáo cho đến chiếc váy ren đen với đỉnh ngực corset được phối cùng kiểu tóc búi cao thanh lịch, đôi giày cao gót ngất trời và kính mắt phong cách retro—cứ như thể đó chỉ là chuyện nhỏ."[338]

Time đã đưa Gaga vào danh sách 100 biểu tượng thời trang mọi thời đại của họ, chỉ ra rằng "Lady Gaga nổi tiếng với phong cách kỳ quặc bên cạnh những bản hit nhạc pop của cô" và đề cập đến những trang phục "làm từ bong bóng nhựa, búp bê Ếch Kermit và thịt tươi sống."[339] Gaga đã diện chiếc váy làm từ thịt bò sống tới dự lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2010, kết hợp với đôi ủng, chiếc túi và cái mũ cũng được làm từ thịt bò sống.[340] Vogue đã phần nào tôn vinh chiếc váy này và vinh danh cô là một trong những người mặc đẹp nhất năm 2010, còn Time thì đã vinh danh chiếc váy là Tuyên bố thời trang của năm ấy.[341][342] Chiếc váy thịt của Gaga đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông trên toàn thế giới và tổ chức bảo vệ quyền động vật Những người tranh đấu cho sự đối xử có đạo đức với động vật (PETA) cho rằng bộ váy gây phản cảm.[343] Sau này, chiếc váy thịt đã được trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Nghệ thuật Quốc gia vào năm 2012[344] và đưa vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào tháng 9 năm 2015.[345]

Người hâm mộ của Gaga gọi thần tượng của mình là "Mẹ quái vật" (Mother Monster), Gaga thường gọi họ là "Những con quái vật nhỏ" (Little Monsters) và đó cũng chính là một cụm từ mà cô đã xăm lên cơ thể nhằm dành tặng riêng cho những người ủng hộ cô.[346] Trong bài viết "Lady Gaga tiên phong về văn hóa fandom trực tuyến như chúng ta biết ngày nay" đăng tải trên tạp chí Vice, Jake Hall viết rằng Gaga đã truyền cảm hứng cho nhiều cộng đồng người hâm mộ sau này, chẳng hạn như của Taylor Swift, RihannaJustin Bieber.[347] Vào tháng 7 năm 2012, Gaga cũng là người đồng sáng lập nền tảng dịch vụ mạng xã hội LittleMonsters.com dành riêng cho người hâm mộ của cô.[348] CEO Scott Hardy của Polaroid ca ngợi Gaga vì đã truyền cảm hứng cho người hâm mộ và tương tác thân thiết với họ trên các phương tiện truyền thông xã hội.[349]

Kiểm duyệt

Năm 2011, Bộ Văn hóa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thay mặt Tổng cục Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình cấm Gaga với lý do "thô tục."[350] Lệnh cấm này đã được dỡ bỏ vào năm 2014. Tuy nhiên, để cho phép album Artpop được phát hành chính thức tại Trung Quốc thì các điều kiện được đặt ra phải thoả mãn, chẳng hạn như che đi phần cơ thể gần như khỏa thân của cô trên ảnh bìa của album. Các quan chức cũng đã thay đổi tựa đề bài hát "Sexxx Dreams" thành "X Dreams."[351]

Năm 2016, Gaga một lần nữa bị cấm ở Trung Quốc sau khi cô có cuộc nói chuyện công khai với Đức Đạt Lai Lạt Ma.[352][353] Chính phủ Trung Quốc đã thêm Gaga vào danh sách các thế lực thù địch nước ngoài và họ yêu cầu các trang web lẫn tổ chức truyền thông Trung Quốc ngừng phân phối các bài hát của cô. Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã ra lệnh cho các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát lên án cuộc gặp mặt này.[354] Trong những năm tiếp theo, hình ảnh của Gaga bị làm mờ trong bản tin về giải Oscar lần thứ 91 tại Trung Quốc và sự xuất hiện của cô đã bị cắt khỏi chương trình Những người bạn: Tái ngộ. Cả hai sự việc này đều gây ra phản ứng dữ dội từ phía người hâm mộ Trung Quốc của Gaga.[355][356]

Hoạt động khác

Từ thiện

Sau khi Gaga từ chối lời mời xuất hiện trong đĩa đơn "We Are the World 25 for Haiti" vì lý do đang luyện tập chuẩn bị cho chuyến lưu diễn, cô đã quyên góp toàn bộ lợi nhuận từ buổi diễn tại Radio City Music Hall vào tháng 1 năm 2010 cho quỹ cứu trợ tái thiết đất nước nhằm giúp đỡ các nạn nhân sau trận động đất ở Haiti vào năm 2010.[357] Gaga cũng đem tất cả lợi nhuận từ cửa hàng trực tuyến của cô vào ngày hôm đó đi quyên góp với tổng số tiền 500.000 USD cho quỹ từ thiện.[358] Cô còn tweet một liên kết đến trang web bán vòng tay cầu nguyện cho Nhật Bản chỉ vài giờ sau trận động đất và sóng thần Tōhoku tấn công Nhật Bản vào năm 2011, và toàn bộ doanh thu từ chiếc vòng đeo tay do cô thiết kế cùng với một công ty đều đã được quyên góp cho đợt cứu trợ ấy[359] với tổng số tiền là 1,5 triệu USD.[360] Tháng 6 năm 2011, Gaga đã biểu diễn tại chương trình từ thiện của MTV Nhật Bản ở Makuhari Messe nhằm gây quỹ cho Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản.[361]

Năm 2012, Gaga tham gia nhóm vận động Artists Against Fracking.[362] Tháng 10 cùng năm, Ono Yōko đã trao tặng cho Gaga cùng với bốn nhà hoạt động khác giải thưởng LennonOno Grant for Peace tại Reykjavík, Iceland.[363] Tháng sau, Gaga cam kết quyên góp 11 triệu USD cho Hội Chữ thập đỏ Mỹ nhằm giúp đỡ các nạn nhân của cơn bão Sandy. Cô cũng đóng góp vào cuộc chiến phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS và tập trung vào giáo dục phụ nữ trẻ về những rủi ro của căn bệnh. Gaga đã hợp tác với Cyndi Lauper và MAC Cosmetics cho ra mắt dòng son môi nằm trong dòng sản phẩm phụ của hãng là Viva Glam,[364] với tổng doanh số bán son lên đến hơn 202 triệu USD được quyên góp trong việc phòng chống dịch HIV/AIDS.[365]

Tháng 4 năm 2016, Gaga đã tham gia cùng với Phó Tổng thống Joe Biden tại Đại học Nevada, Las Vegas nhằm ủng hộ chiến dịch It's On Us, trong lúc Biden đang thay mặt cho tổ chức đi đến các trường đại học và thu hút được 250.000 sinh viên từ 530 trường đại học ký cam kết đoàn kết và hành động.[366] Hai tháng sau, Gaga tham dự Hội nghị Thị trưởng Hoa Kỳ lần thứ 84 tại Indianapolis. Tại đây, cô cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về sức mạnh của lòng tốt và cách biến thế giới trở thành một nơi từ bi hơn.[367]

Tháng 4 năm 2020, Gaga tổ chức buổi hòa nhạc từ thiện được truyền hình trực tiếp One World: Together at Home hợp tác với Global Citizen nhằm quyên góp cho Quỹ Đoàn kết Ứng phó với COVID-19 của Tổ chức Y tế Thế giới.[368][369] Chương trình đặc biệt này đã gây quỹ được 127 triệu USD và theo Forbes, con số này đã đưa buổi hòa nhạc One World: Together at Home "lên ngang hàng với một sự kiện quyên góp từ thiện huyền thoại khác là Live Aid, với tư cách là buổi hòa nhạc từ thiện có doanh thu cao nhất trong lịch sử."[370] Để ghi nhận những đóng góp của Gaga cho phong trào Black Lives Matter, Trung tâm King trao tặng giải Yolanda Denise King High Ground cho cô tại giải thưởng Cộng đồng Yêu thương. Trong bài phát biểu nhận giải, Gaga đã lên án chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và da trắng thượng đẳng, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của cô với tư cách là một nghệ sĩ nổi tiếng và một người phụ nữ da trắng.[371]

Quỹ Born This Way

Gaga tại một sự kiện của Quỹ Born This Way ở châu Âu vào năm 2013

Năm 2012, Gaga ra mắt một tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào việc trao quyền cho giới trẻ có tên gọi là Quỹ Born This Way (BTWF). Tên của quỹ được lấy từ đĩa đơn và album phát hành năm 2011 của cô. Trùm truyền thông Oprah Winfrey, nhà văn Deepak Chopra và Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ Kathleen Sebelius đã phát biểu tại lễ thành lập quỹ này ở Đại học Harvard.[372] Nguồn tài trợ ban đầu của quỹ gồm có 1,2 triệu USD từ phía Gaga, 500.000 USD từ Quỹ MacArthur và 850.000 USD từ Barneys New York.[373] Tháng 7 năm 2012, BTWF đã hợp tác với Office Depot quyên góp 25% doanh số bán hàng và tối thiểu 1 triệu USD từ các sản phẩm học tập phiên bản giới hạn cho mùa tựu trường.[374] Quỹ từ thiện đã thực hiện những sáng kiến gồm có "Born Brave Bus" và theo chân Gaga trong chuyến lưu diễn của cô, trở thành một trung tâm nhằm hỗ trợ thanh thiếu niên chống lại bắt nạt.[375][376]

Tháng 10 năm 2015, tại Trung tâm Trí thông minh cảm xúc Yale, Gaga đã tham gia cùng 200 học sinh trung học, các nhà hoạch định chính sách và các quan chức học thuật gồm có Peter Salovey, nhằm thảo luận tìm ra cách nhận biết và điều khiển cảm xúc để đem lại kết quả tích cực.[377] Năm 2016, quỹ hỗ trợ tham gia hợp tác với Intel, Vox MediaRecode để chống lại hành vi quấy rối trên mạng.[378] Doanh thu của tạp chí V ấn bản số 99 có sự xuất hiện của Gaga và Kinney đã được quyên góp cho quỹ.[166] Vào tháng 5, Gaga cùng Elton John cho ra mắt dòng quần áo và phụ kiện Love Bravery tại Macy's, với 25% kinh phí của mỗi sản phẩm sẽ được đem đi quyên góp cho quỹ của Gaga và Quỹ phòng chống AIDS của Elton John.[379] Tháng 6 năm 2017, Gaga hợp tác với Starbucks thực hiện chiến dịch "Cups of Kindness" kéo dài một tuần, và công ty sẽ trích 25 xu từ một số đồ uống được bán ra để sung quỹ cho cô.[380] Gaga còn xuất hiện trong một video của Staples Inc. nhằm gây quỹ cho quỹ của mình và DonorsChoose.org.[381]

Vào Ngày Lòng tốt Thế giới năm 2018, Gaga hợp tác với quỹ nhằm mang đến thực phẩm và hàng cứu trợ cho một nơi tạm nương thân của Hội Chữ thập đỏ dành cho những người đã phải sơ tán khỏi nhà của mình do cháy rừng ở California. Quỹ này cũng hợp tác với Starbucks và SoulCycle nhằm bày tỏ biết ơn những người lính cứu hỏa California vì đã công tác cứu trợ trong cuộc khủng hoảng. Trước đó, Gaga cũng đã phải sơ tán khỏi nhà của mình trong trận hỏa hoạn Woolsey lan rộng khắp các vùng của Malibu.[382]

Tháng 3 năm 2019, Gaga đã viết một bức thư gửi tới những người ủng hộ Quỹ Born This Way và thông báo về việc khởi động một chương trình thí điểm mới cho dự án hỗ trợ sức khỏe tâm thần đầu tiên dành cho thanh thiếu niên cùng với Hội đồng Sức khỏe Hành vi Quốc gia. Trong thư, Gaga tiết lộ những khó khăn cá nhân liên quan đến sức khỏe tâm thần của mình và cách cô có thể nhận được sự hỗ trợ để cứu sống bản thân: "Tôi biết rõ ý nghĩa của việc có ai đó ủng hộ và thấu hiểu tôi đang trải qua những gì, và mọi thanh thiếu niên trên thế giới đều cần có người để tâm sự khi khổ đau. Điều đó đã cứu mạng tôi và sẽ cứu mạng họ."[383][384] Tháng 9 năm 2020, Gaga ra mắt một tuyển tập sách mang tên Channel Kindness: Stories of Kindness and Community gồm 51 câu chuyện về lòng tốt, lòng dũng cảm và sự kiên cường của những người trẻ trên toàn thế giới, và tất cả những câu chuyện đều được Quỹ Born This Way sưu tầm với lời giới thiệu của chính Gaga.[385][386] Cô đã quảng bá cuốn sách này bằng thử thách 21 ngày tử tế trên mạng xã hội, sử dụng hashtag "BeKind21".[387] Năm 2021, Gaga hợp tác với nhà sản xuất rượu sâm panh Dom Pérignon nhằm ủng hộ Quỹ Born This Way bằng cách mở bán 110 chai rượu Rosé Vintage 2005 số lượng giới hạn kèm theo một tác phẩm điêu khắc do chính tay Gaga thiết kế tại các sự kiện riêng tư. Tổng lợi nhuận 570.000 USD từ việc bán rượu đã được quyên góp cho quỹ.[388][389] Vào Ngày Lòng tốt Thế giới 2021, Gaga đã phát hành chương trình đặc biệt dài 30 phút mang tên The Power of Kindness nằm trong một phần chương trình Channel Kindness của quỹ. Trong đó, cô cùng với một chuyên gia sức khỏe tâm thần và một nhóm 11 thanh thiếu niên đã có những chia sẻ về mối liên hệ giữa lòng tốt và sức khỏe tâm thần.[390]

Ủng hộ LGBT

Gaga lên tiếng phản đối chính sách "không hỏi, không nói" tại Portland, Maine (2010)

Gaga là người phụ nữ song tính[c] và cô tích cực ủng hộ quyền LGBT trên toàn thế giới.[391] Gaga cho rằng phần lớn sự nghiệp nghệ sĩ mainstream của cô ban đầu thành công là nhờ vào những người hâm mộ đồng tính và bản thân cô còn được coi là một biểu tượng đồng tính.[392][393] Trong giai đoạn đầu sự nghiệp, Gaga đã gặp khó khăn trong việc đưa các bài hát của mình lên sóng phát thanh và phát biểu rằng, "Bước ngoặt đối với tôi chính là cộng đồng người đồng tính."[394] Cô đã cảm ơn công ty tiếp thị cho cộng đồng LGBT mang tên FlyLife, có trụ sở tại Manhattan và đã từng hợp tác với hãng đĩa Interscope của cô, trong phần lời cảm ơn của album The Fame.[395] Một trong những màn trình diễn trên truyền hình đầu tiên của cô là vào tháng 5 năm 2008 tại buổi lễ trao giải thưởng NewNowNext được phát sóng trên kênh truyền hình LGBT mang tên Logo.[396]

Gaga đã phát biểu tại Cuộc tuần hành Bình đẳng Quốc gia vào năm 2009 ở Washington, D.C. nhằm ủng hộ phong trào đòi quyền lợi của người LGBT.[397] Cô tham dự giải Video âm nhạc của MTV năm 2010 cùng với bốn cựu binh lính quân đội Hoa Kỳ đồng tính nam và đồng tính nữ. Họ là những người không thể công khai giới tính khi còn phục vụ trong quân đội do chính sách "không hỏi, không nói", cấm quân nhân công khai xu hướng tính dục đồng giới của mình.[398] Gaga kêu gọi người hâm mộ của cô thông qua YouTube liên hệ với các thượng nghị sĩ nhằm nỗ lực lật ngược chính sách này. Tháng 9 năm 2010, cô đã phát biểu tại cuộc biểu tình của Tổ chức Bảo vệ Quyền lợi Pháp lý Quân nhân (Servicemembers Legal Defense Network) ở Portland, Maine. Sau sự kiện này, The Advocate đã gọi cô là "người ủng hộ mạnh mẽ" cho người đồng tính nam và đồng tính nữ.[399]

Gaga xuất hiện tại sự kiện quốc tế Europride dành riêng cho niềm tự hào LGBT diễn ra ở Rome vào tháng 6 năm 2011. Cô đã chỉ trích tình trạng tồi tệ về quyền của người đồng tính ở nhiều quốc gia châu Âu và mô tả người đồng tính là "những nhà cách mạng vì tình yêu".[400] Cùng năm đó, một thiếu niên tên là Jamey Rodemeyer đã nhắc tới cô vài giờ trước khi cậu qua đời. Rodemeyer đã tweet "@ladygaga tạm biệt mẹ quái vật, cảm ơn vì tất cả những gì chị đã làm, mãi mãi ủng hộ" (@ladygaga bye mother monster, thank you for all you have done, paws up forever). Cái chết của Rodemeyer đã thôi thúc Gaga đến gặp Tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama nhằm giải quyết vấn đề bắt nạt người đồng tính ở các trường học Mỹ.[401] Năm 2011, cô còn được tổ chức Universal Life Church Monastery tấn phong làm mục sư để có thể chủ trì hôn lễ cho hai người bạn đồng tính nữ.[402]

Tháng 6 năm 2016, trong buổi cầu nguyện được tổ chức ở Los Angeles nhằm tưởng nhớ các nạn nhân trong vụ tấn công tại hộp đêm đồng tính Pulse ở Orlando, Gaga đã đọc to tên của 49 người thiệt mạng trong vụ tấn công và mở lời phát biểu.[403] Sau đó cùng tháng, Gaga còn xuất hiện trong video tri ân các nạn nhân của vụ tấn công này do Chiến dịch Nhân quyền thực hiện.[404] Cô đã lên tiếng phản đối nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump và lệnh cấm người chuyển giới phục vụ trong quân đội của ông.[405][406] Cô đã ủng hộ cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton ra tranh cử tổng thống năm 2016.[407] Năm 2018, một bản ghi âm nội bộ đã bị rò rỉ từ văn phòng Tổng thống Trump tiết lộ rằng chính quyền của ông muốn thay đổi định nghĩa pháp lý về giới tính nhằm loại trừ người Mỹ chuyển giới ra khỏi luật pháp. Gaga là một trong nhiều người nổi tiếng đã chỉ trích ông và truyền bá chiến dịch #WontBeErased đến 77 triệu người theo dõi của cô trên Twitter.[408][409] Tháng 1 năm 2019, trong một buổi biểu diễn của chương trình Enigma, Gaga đã chỉ trích Phó Tổng thống Mike Pence vì người vợ Karen Pence của ông đang làm việc tại một trường Cơ đốc giáo có chính sách từ chối nhận học sinh LGBTQ. Gaga gọi ông là "gương mặt đại diện tồi tệ nhất về cái gọi của việc trở thành một tín đồ Cơ đốc". Cô cũng khẳng định "tôi là một người phụ nữ theo Cơ đốc giáo và những gì tôi biết về Cơ đốc giáo là chúng ta không có phân biệt đối xử và mọi người đều được hoan nghênh".[410] Gaga đã có một bài phát biểu chào mừng kỷ niệm 50 năm cuộc bạo loạn Stonewall và những thành tựu của cộng đồng LGBTQ+ tại sự kiện WorldPride NYC 2019 diễn ra bên ngoài quán bar Stonewall Inn. Đó cũng là nơi khai sinh ra phong trào đấu tranh cho quyền lợi của người đồng tính hiện đại.[411]

Di sản

Gaga biểu diễn trong chuyến lưu diễn ArtRave: The Artpop Ball vào năm 2014

Gaga được mệnh danh là "Nữ hoàng nhạc pop" trong một bảng xếp hạng do Rolling Stone thực hiện năm 2011 dựa trên doanh số bán đĩa và các số liệu truyền thông xã hội. Năm 2012, cô đứng thứ tư trong danh sách Những người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc của VH1[412][413] và trở thành một phần của triển lãm tạm thời mang tên The Elevated. From the Pharaoh to Lady Gaga, nhân dịp kỷ niệm 150 năm thành lập Bảo tàng quốc gia Warszawa.[414]

Gaga thường được ca ngợi vì biết tận dụng những tranh cãi để thu hút dư luận lẫn truyền thông chú ý đến nhiều vấn đề khác nhau.[415][416] Theo Frankie Graddon của The Independent, việc Gaga mặc chiếc váy làm từ thịt sống nhằm thể hiện sự chán ghét chính sách "không hỏi, không nói" của quân đội Mỹ đã ảnh hưởng đến phong cách ăn mặc biểu tình trên thảm đỏ.[417] Billboard đã vinh danh cô là "Ngôi sao nhạc pop vĩ đại nhất năm 2009" và khẳng định "nếu chỉ nói rằng sự thăng tiến của cô ấy từ tân binh tới MVP chỉ trong vòng một năm thì vẫn chưa đủ để diễn tả, vì cô ấy không chỉ thành công mà còn thay đổi cả cuộc chơi âm nhạc nhờ vào đam mê không ngừng đổi mới của bản thân cô ấy."[418] Trước sự thành công của The Fame vốn đã từng được Rolling Stone liệt vào danh sách 100 album đầu tay vĩ đại nhất mọi thời đại vào năm 2013,[419] Gaga được ghi nhận là một trong những nhạc sĩ đã giúp phổ biến hóa dòng nhạc synth-pop vào cuối thập kỷ 2000 và đầu thập kỷ 2010.[420]

Theo Kelefa Sanneh của The New Yorker, "Lady Gaga đã mở đường cho các ngôi sao nhạc pop cá tính bằng việc xem danh tiếng của chính mình như một dự án nghệ thuật đang phát triển."[421] Sau khi xếp Born This Way vào danh sách 50 album của nữ nghệ sĩ hay nhất mọi thời đại, Rob Sheffield của Rolling Stone cho rằng "thật khó có thể nhớ về một thế giới mà chúng ta chưa từng có Gaga, dù chúng ta khá chắc rằng thế giới đó sẽ nhàm chán hơn rất nhiều".[422] Năm 2015, Time cũng nhận định cho rằng Gaga "thực sự đã tạo nên kỷ nguyên hiện tại của nhạc pop như một hiện tượng".[423] Một bài viết được công bố trên Psychology of Aesthetics, Creativity, and the Arts vào năm 2017 nghiên cứu về mô hình cấu trúc trong giai điệu của các ca khúc gây sâu tai (earworm) đã tổng hợp danh sách bài hát bắt tai nhất dựa trên sự tham gia của 3.000 người, trong đó "Bad Romance", "Alejandro" và "Poker Face" của Gaga lần lượt đứng ở vị trí số một, tám và chín.[424] Năm 2018, NPR đã vinh danh Gaga là nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng thứ hai trong thế kỷ 21, nhấn mạnh rằng cô là "một trong những nghệ sĩ lớn đầu tiên của 'thời đại Internet'".[425] Gaga và tác phẩm của cô đã ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ khác nhau bao gồm Miley Cyrus,[426] Nicki Minaj,[427] Ellie Goulding,[428] Halsey,[429] Jennifer Lopez,[430] Beyoncé,[431] Nick Jonas,[432] Sam Smith,[433] Noah Cyrus,[434] Katherine Langford,[435] MGMT,[436] Allie X,[437] Greyson Chance,[438] Cardi B,[439] Rina Sawayama,[440] Blackpink,[441] Madison Beer,[442] Ren,[443] Slayyyter,[444] Bebe Rexha,[445] Bree Runway,[446] Celeste,[447] Kim Petras,[448] Jojo Siwa,[449] Pabllo Vittar,[450] Ava Max,[451] Doja Cat,[452] Chaeyoung của Twice,[453] Kanye West,[454] Rachel Zegler,[455] SZA,[456] Raye,[457] Grace Gaustad,[458] và Laufey.[459]

Nhằm vinh danh Gaga, tên của cô được sử dụng để đặt cho một chi dương xỉ mới mang tên Gaga gồm hai loài là G. germanottaG. monstraparva.[460] Riêng tên gọi monstraparva được dùng để ám chỉ đến những người hâm mộ Gaga, tự xưng là Little Monsters, vì biểu tượng của họ là bàn tay "móng vuốt quái vật" dang rộng[461] giống như cách mà một chiếc lá dương xỉ non được cuộn chặt rồi bung ra.[460] Ngoài ra, tên của Gaga còn được đặt cho một loài côn trùng trông như "quái vật" có tên khoa học là Kaikaia gaga.[462][463] Cô thậm chí còn được tôn vinh bằng cách đặt tên cho một loài động vật có vú đã tuyệt chủng là Gagadon minimonstrum,[464] và một loài ong ký sinh Aleiodes gaga.[465][466]

Tại Đài Trung, Đài Loan, ngày 3 tháng 7 được chọn là "Ngày Lady Gaga" nhân kỷ niệm ngày Gaga lần đầu đến thăm đất nước này vào năm 2011.[467] Nhằm kỷ niệm 10 năm phát hành album Born This Way và tầm ảnh hưởng văn hóa mà nó đã tạo ra, vào tháng 5 năm 2021, thị trưởng thành phố West Hollywood Lindsey P. Horvath đã trao chìa khóa của thành phố (key to the city) cho Gaga và tuyên bố ngày 23 tháng 5 là "Ngày Born This Way". Một bức họa đường phố phiên bản lá cờ lục sắc của Daniel Quasar có ghi tựa đề album này đã được ra mắt trên Đại lộ Robertson như một lời tri ân dành cho album và cách nó đã truyền cảm hứng cho cộng đồng LGBT trong suốt nhiều năm qua.[468]

Thành tựu

Gaga đã giành được 13 giải Grammy,[469] 1 giải Oscar,[208] 2 giải Quả cầu vàng,[470] 1 giải BAFTA,[208] 3 giải Brit,[471] 16 Kỷ lục Guinness thế giới,[472] và giải thưởng Biểu tượng Đương đại của Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ.[161] Cô còn được trao tặng giải Nghệ sĩ Trẻ của Giải thưởng Nghệ thuật Quốc gia vinh danh cô là một trong số những người đã thể hiện được thành tích và khả năng lãnh đạo ngay từ sớm trong sự nghiệp.[473] Ngoài ra, Gaga nhận được giải thưởng Nghệ sĩ Jane Ortner từ Bảo tàng Grammy vào năm 2016,[171] và giải của Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất vào năm 2018.[208] Hội đồng các nhà thiết kế thời trang Hoa Kỳ (CFDA) đã trao tặng Gaga giải thưởng Biểu tượng thời trang.[474] Năm 2019, Gaga trở thành người phụ nữ đầu tiên giành được giải Oscar, giải BAFTA, giải Quả cầu vàng và giải Grammy trong cùng một năm nhờ việc cô tham gia sáng tác album nhạc phim Vì sao vụt sáng.[475] Tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2020, cô được trao tặng giải Tricon lần đầu tiên, nhằm tôn vinh những thành tựu của cô trong ba (hoặc nhiều) lĩnh vực giải trí khác nhau.[237]

Billboard công nhận Gaga là Ngôi sao nhạc pop vĩ đại nhất năm 2009 và được đề cử danh dự vào năm 2010 và 2011, cũng như là Người phụ nữ của năm 2015. Gaga đã liên tục xuất hiện trên bảng xếp hạng Nghệ sĩ của năm (đạt ngôi vị quan trọng vào năm 2010) và đứng thứ 11 trên bảng Xếp hạng Nghệ sĩ hàng đầu của thập niên 2010 theo tạp chí này.[476][477][478] Cô cũng là nghệ sĩ giữ vị trí quán quân lâu nhất trên bảng xếp hạng Dance/Electronic Albums của Billboard với 244 tuần, còn The Fame (2008) của cô thì nắm giữ kỷ lục album có số tuần đứng đầu bảng xếp hạng này nhiều nhất với tổng cộng 175 tuần không liên tiếp.[479][480] Album Born This Way (2011) của Gaga từng được góp mặt trong danh sách 500 Album vĩ đại nhất mọi thời đại của Rolling Stone vào năm 2020, đồng thời ca khúc "Bad Romance" cùng với video âm nhạc của nó cũng được đưa vào danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại và 100 video âm nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại của tờ Rolling Stone vào năm 2021.[481] Năm 2023, tạp chí này đã xếp Gaga vào danh sách 200 ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại.[482]

Với doanh số ước tính là 170 triệu đĩa tính đến năm 2018,[483] Gaga là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất thế giới và đã sản xuất một số đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.[484] Tính đến năm 2022, Gaga đã thu về hơn 689,5 triệu USD doanh thu từ các chuyến lưu diễn và buổi lưu trú hòa nhạc với sự tham gia của 6,3 triệu khán giả. Cô trở thành người phụ nữ thứ năm vượt qua mốc nửa tỷ USD theo báo cáo từ Billboard Boxscore[239][485] và nhận được giải thưởng Pollstar cho Nghệ sĩ lưu diễn nhạc Pop của thập niên 2010.[486] Cô đứng thứ 18 trong danh sách nghệ sĩ có doanh số bán đĩa kỹ thuật số hàng đầu tại Hoa Kỳ với 87,5 triệu đơn vị tương đương được chứng nhận theo Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA),[d] và trở thành người phụ nữ đầu tiên được chứng nhận Giải Kim cương Kỹ thuật số từ RIAA. Ngoài ra, Gaga còn là một trong số ít nghệ sĩ có tối thiểu ba bài hát được chứng nhận Kim cương ("Bad Romance", "Poker Face" và "Just Dance"),[488][489] đồng thời là nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất có hai ca khúc vượt mốc bảy triệu lượt tải xuống ("Poker Face" và "Just Dance").[490] Năm 2020, cô trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên có bốn đĩa đơn ("Just Dance", "Poker Face", "Bad Romance" và "Shallow") bán được ít nhất 10 triệu bản trên toàn cầu.[491]

Theo kỷ lục Guinness thế giới, Gaga là người được theo dõi nhiều nhất trên Twitter từ năm 2011 đến năm 2013,[97][492] là người nổi tiếng nhất năm 2013,[493] và là ngôi sao nhạc pop quyền lực nhất năm 2014.[494] Cô được xếp vào danh sách 100 người nổi tiếng quyền lực nhất thế giới của Forbes từ năm 2010 đến năm 2015 và sau đó từ năm 2018 đến năm 2020, trong đó đứng đầu danh sách vào năm 2011. Gaga kiếm được 62 triệu USD, 90 triệu USD, 52 triệu USD, 80 triệu USD, 33 triệu USD và 59 triệu USD từ năm 2010 đến năm 2015, 50 triệu USD, 39 triệu USD và 38 triệu USD từ năm 2018 đến năm 2020.[495][496] Cô còn xuất hiện trong danh sách Người phụ nữ quyền lực nhất thế giới của Forbes từ năm 2010 đến năm 2014.[497][498] Tạp chí Time đã vinh danh Gaga là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới vào năm 2010 và 2019,[499][500] và xếp cô đứng thứ hai trong cuộc thăm dò ý kiến độc giả về những người có ảnh hưởng nhất trong 10 năm qua của tạp chí này vào năm 2013.[501]

Tháng 3 năm 2012, Gaga đứng thứ tư trong danh sách ngôi sao kiếm nhiều tiền nhất năm 2011 của Billboard với thu nhập 25 triệu USD gồm doanh thu từ album Born This Way và chuyến lưu diễn Monster Ball Tour của cô.[502] Trong năm tiếp theo, cô đứng đầu danh sách ngôi sao kiếm nhiều tiền nhất dưới 30 tuổi của Forbes[496] và cô cũng đã từng đứng đầu danh sách này vào năm 2011.[503] Tháng 2 năm 2016, tạp chí này ước tính giá trị tài sản ròng của cô là 275 triệu USD.[504] Tháng 12 năm 2019, Gaga được xếp vào vị trí thứ 10 trong danh sách nghệ sĩ kiếm nhiều tiền nhất thập kỷ của Forbes với thu nhập 500 triệu USD trong thập niên 2010. Cô là nữ nhạc sĩ có thu nhập cao thứ 4 trong danh sách này.[505]

Danh sách đĩa nhạc

Album phòng thu solo

Album phòng thu hợp tác

  • Cheek to Cheek (với Tony Bennett) (2014)
  • Love for Sale (với Tony Bennett) (2021)

Lưu diễn và hòa nhạc lưu trú

Chủ trì

Đồng chủ trì

Hòa nhạc lưu trú

  • Lady Gaga Live at Roseland Ballroom (2014)
  • Lady Gaga Enigma + Jazz & Piano (2018–2023)

Nghệ sĩ hỗ trợ

  • Doll Domination Tour (2009)

Danh sách phim

Điện ảnh

Truyền hình

  • Truyện kinh dị Mỹ: Khách sạn (2015–2016)
  • Truyện kinh dị Mỹ: Thuộc địa Roanoke (2016)

Ghi chú

  1. ^ Năm 2010, Fusari tuyên bố rằng ông có quyền được hưởng 20% lợi nhuận của công ty, nhưng Tòa án Tối cao New York đã bác bỏ cả vụ kiện và đơn phúc đáp của Gaga.[93][94]
  2. ^ Cả hai sản phẩm nước hoa này đều được ra mắt dưới sự hợp tác với Coty[119][120]
  3. ^ Gaga cho biết bài hát "Poker Face" đề cập đến chủ đề song tính luyến ái của bản thân, và nữ ca sĩ cũng công khai chia sẻ rằng các bạn trai cũ của cô đã không thoải mái với xu hướng tính dục của mình.[29]
  4. ^ Tính đến tháng 9 năm 2023, Gaga đã có tổng cộng 82,5 triệu đơn vị chứng nhận cho việc tải xuống kỹ thuật số và phát trực tuyến theo yêu cầu trong vai trò nghệ sĩ solo, bên cạnh 5 triệu đơn vị cùng với Bradley Cooper.[487]

Tham khảo

Chú thích nguồn

  1. ^ Thông tin khai sinh:
    • “Artists: Lady Gaga”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • Spedding, Emma (ngày 28 tháng 3 năm 2013). “It's Lady Gaga's 27th Birthday! We Celebrate With Her 10 Style Highlights Of The Year”. Grazia (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ Thông tin về lý lịch gia đình:
    • Graves-Fitzsimmons, Guthrie (ngày 5 tháng 2 năm 2017). “The provocative faith of Lady Gaga”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • Kaufman, Gil (ngày 26 tháng 1 năm 2012). “Lady Gaga Opens Italian Restaurant With Her Dad” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • “Lady Gaga”. Elle (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  3. ^ “Lady Gaga's Universe: Mom Cynthia Germanotta”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  4. ^ Harman, Justine (ngày 20 tháng 9 năm 2011). “Lady Gaga's Little Sister: I Support the Spectacle”. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  5. ^ Reszutek, Dana (ngày 28 tháng 3 năm 2017). “Uptown to downtown, see Lady Gaga's New York”. AM New York (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  6. ^ Barber, Lynn (ngày 6 tháng 12 năm 2009). “Shady lady: The truth about pop's Lady Gaga”. The Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  7. ^ a b Sturges, Fiona (ngày 16 tháng 5 năm 2009). “Lady Gaga: How the world went crazy for the new queen of pop”. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  8. ^ Tracy 2013, tr. 202.
  9. ^ Johnson 2012, tr. 20.
  10. ^ Johnson 2012, tr. 26.
  11. ^ a b c Grigoriadis, Vanessa (ngày 28 tháng 3 năm 2010). “Growing Up Gaga”. New York (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  12. ^ Manelis, Michele (ngày 12 tháng 10 năm 2015). “LSTFI Alum Lady Gaga taps into The Lee Strasberg Method” (bằng tiếng Anh). Lee Strasberg Theatre and Film Institute. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  13. ^ Morgan 2010, tr. 27.
  14. ^ Blauvelt, Christian (ngày 11 tháng 10 năm 2010). “Lady Gaga fans discover her pre-fame 'Sopranos' cameo”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  15. ^ Uitti, Jacob (ngày 8 tháng 5 năm 2022). “Behind the Name: Lady Gaga”. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  16. ^ “Lady Gaga Bio” (bằng tiếng Anh). ladygaga.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  17. ^ Florino, Rick (ngày 30 tháng 1 năm 2009). “Interview: Lady GaGa” (bằng tiếng Anh). Artistdirect. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  18. ^ O'Malley, Katie (ngày 18 tháng 8 năm 2016). “Successful Celebrities Who Failed At School But Won At Life”. Elle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  19. ^ a b Harris, Chris (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “Lady GaGa Brings Her Artistic Vision Of Pop Music To New Album” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  20. ^ Kos, Saimon (ngày 10 tháng 8 năm 2009). “'Boiling Points' Actress And Producer Talk About Pulling Prank On Not-Yet-Famous Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  21. ^ Bakare, Larney (ngày 2 tháng 12 năm 2014). “Lady Gaga reveals she was raped at 19”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  22. ^ “Lady Gaga says she has PTSD after being raped at 19” (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 5 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  23. ^ Rice, Nicholas (ngày 21 tháng 5 năm 2021). “Lady Gaga Opens Up About Past Sexual Assault, Says She Became Pregnant After Being Raped at 19”. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  24. ^ Musto, Michael (ngày 19 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga Did a Children's Book In 2007!”. The Village Voice (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  25. ^ Morgan 2010, tr. 31.
  26. ^ Kaufman, Gil (ngày 19 tháng 3 năm 2010). “Lady Gaga/ Rob Fusari Lawsuit: A Closer Look” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  27. ^ Morgan 2010, tr. 36.
  28. ^ a b “Lady Gaga Sued By Producer Rob Fusari”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  29. ^ a b Hiatt, Brian (ngày 30 tháng 5 năm 2009). “The Rise of Lady Gaga”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). New York. 1080 (43). ISSN 0035-791X.
  30. ^ Morgan 2010, tr. 45.
  31. ^ a b Erlewine, Stephen. “Mục Biology trang nghệ sĩ Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). AllMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2023.
  32. ^ Beaudoin, Kate (ngày 10 tháng 3 năm 2015). “The Story of How Lady Gaga Became Famous Will Make You Like Her Even More” (bằng tiếng Anh). Mic. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  33. ^ Carlton, Andrew (ngày 16 tháng 2 năm 2010). “Lady Gaga: 'I've always been famous, you just didn't know it'”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  34. ^ Montgomery, James (ngày 25 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga's 'Inside The Outside': Meet The 'Perpetual Underdog'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  35. ^ a b Hobart, Erika (ngày 18 tháng 11 năm 2008). “Lady GaGa: Some Like it Pop”. Seattle Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
  36. ^ “Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Broadcast Music Incorporated. ngày 9 tháng 7 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  37. ^ Haus of GaGa (ngày 16 tháng 12 năm 2008). Transmission Gaga-vision: Episode 26 (bằng tiếng Anh). Lady Gaga.
  38. ^ Mitchell, Gail (ngày 10 tháng 11 năm 2007). “Interscope's New Imprint”. Billboard (bằng tiếng Anh). 119 (45): 14. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  39. ^ “Singer Tamar Braxton files for divorce from husband-manager”. Daily Herald (bằng tiếng Anh). Arlington. ngày 25 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  40. ^ a b Harding, Cortney (ngày 15 tháng 8 năm 2009). “Lady Gaga: The Billboard Cover Story”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  41. ^ Cowing, Emma (ngày 20 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa: Totally Ga-Ga”. The Scotsman (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  42. ^ a b Birchmeier, Jason (ngày 20 tháng 4 năm 2008). “Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  43. ^ Vena, Jocelyn (ngày 5 tháng 6 năm 2009). “Akon Calls Lady Gaga His 'Franchise Player'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  44. ^ “Interview With RedOne” (bằng tiếng Anh). HitQuarters. ngày 23 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  45. ^ “Lady Gaga Biography” (bằng tiếng Anh). Contactmusic.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  46. ^ “Inspiration” (bằng tiếng Anh). Haus of Gaga. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  47. ^ Gaga, Lady. “The Fame” (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  48. ^ Williams, John (ngày 14 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa's 'Fame' rises to No. 1”. Jam! (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2015.
  49. ^ “Lady Gaga – The Fame – World Charts” (bằng tiếng Anh). aCharts.co. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  50. ^ Gray II 2012, tr. 3.
  51. ^ a b c d e f g h “Lady Gaga Chart History: Hot 100”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  52. ^ “Discography Lady GaGa” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  53. ^ a b “Lady Gaga Chart History: Billboard Canadian Hot 100”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  54. ^ a b c d “Lady Gaga | Official Chart History” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  55. ^ “Digital Music Sales Around The World” (PDF) (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. tr. 10. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  56. ^ “Most weeks on US Hot Digital Songs chart”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  57. ^ Các đĩa đơn phát hành từ The Fame:
    • “Eh Eh (Nothing Else I Can Say) Single” (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • “No 7: Love Game” (bằng tiếng Anh). Capital FM. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • Evans, Morgan (ngày 31 tháng 1 năm 2017). “Lady Gaga's 10 Most Amazing Live Performances”. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  58. ^ “Chartverfolgung / Lady Gaga / Single” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  59. ^ “Hit Mixes – Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  60. ^ “List of Grammy winners” (bằng tiếng Anh). CNN. ngày 1 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  61. ^ a b Nestruck, Kelly (ngày 30 tháng 11 năm 2009). “Lady Gaga's Monster Ball, reviewed by a theatre critic”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  62. ^ Morgan 2010, tr. 131.
  63. ^ “Lady Gaga Returns With 8 New Songs on 'The Fame Monster'” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). PR Newswire. ngày 8 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  64. ^ Cinquemani, Sal (ngày 18 tháng 11 năm 2009). “Lady Gaga The Fame Monster”. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  65. ^ Villa, Lucas (ngày 16 tháng 5 năm 2014). “Lady Gaga becomes first woman to earn Digital Diamond Award for 'Bad Romance'” (bằng tiếng Anh). AXS. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  66. ^ “Australian-charts.com – Lady Gaga – Bad Romance” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  67. ^ “Charts.org.nz – Lady Gaga – Bad Romance” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  68. ^ Daw, Robbie (ngày 12 tháng 11 năm 2009). “Lady Gaga-Beyonce Duet 'Telephone' Set As Next 'Fame Monster' Single” (bằng tiếng Anh). Idolator. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  69. ^ “Lady Gaga tops UK album and single charts”. BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  70. ^ “Lady Gaga releases 'Alejandro' remix album”. The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  71. ^ “Lady Gaga – Alejandro (bài hát)” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  72. ^ “Lady Gaga Mimics Madonna”. Liên đoàn Công giáo (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  73. ^ O'Neill, Megan (ngày 14 tháng 4 năm 2010). “Lady Gaga's Bad Romance Is Officially The Most Viewed Video On YouTube Ever”. Adweek (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  74. ^ Whitworth, Dan (ngày 26 tháng 10 năm 2010). “Lady Gaga beats Justin Bieber to YouTube record”. BBC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  75. ^ “MTV Video Music Awards 2010” (bằng tiếng Anh). MTV. ngày 12 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  76. ^ Kaufman, Gil (ngày 3 tháng 8 năm 2010). “Lady Gaga's 13 VMA Nominations: How Do They Measure Up?” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  77. ^ “53rd annual Grammy awards: The winners list” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  78. ^ “Most cumulative weeks on UK singles chart in one year”. Sách Kỷ lục Guinness (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  79. ^ “Most downloaded act in a year (USA) – female”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  80. ^ “Lady Gaga adds second show in Singapore” (bằng tiếng Anh). AsiaOne. ngày 27 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  81. ^ Sailor, Craig (ngày 18 tháng 9 năm 2012). “Lady Gaga fills in the details on her Tacoma show”. The News Tribune (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  82. ^ Smirke, Richard (ngày 30 tháng 3 năm 2011). “IFPI 2011 Report: Global Recorded Music Sales Fall 8.4%; Eminem, Lady Gaga Top Int'l Sellers”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  83. ^ Newman, Melinda (ngày 29 tháng 6 năm 2011). “Martin Kierszenbaum has a knack for finding the next big thing”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  84. ^ Ziegbe, Mawuse (ngày 8 tháng 7 năm 2010). “Lady Gaga Remix Album Due In The U.S. Next Month” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  85. ^ Herrera, Monica (ngày 15 tháng 10 năm 2009). “Lady Gaga Unveils 'The Monster Ball'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  86. ^ Waddell, Ray (ngày 5 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga's Monster Ball Tour Breaks Record for Debut Headlining Artist”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  87. ^ “Lady GaGa Presents The Monster Ball Tour: At Madison Square Garden” (bằng tiếng Anh). Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Truyền hình Mỹ. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  88. ^ “Lady Gaga wins Brit Awards triple”. BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    “Lady Gaga meets the Queen at the Royal Variety Performance in Blackpool”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    Virtel, Louis (ngày 12 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga's 10 Best Live Performances” (bằng tiếng Anh). Logo TV. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  89. ^ Herrera, Monica (ngày 1 tháng 6 năm 2010). “Lady Gaga Talks Michael Jackson, Lupus Diagnosis with Larry King”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  90. ^ Williams, Martyn (ngày 7 tháng 9 năm 2009). “Lady Gaga Storms IFA With New Headphones”. PC World (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  91. ^ Swash, Rosie (ngày 8 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga to become Polaroid's creative director”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  92. ^ O'Dell, Jolie (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “Polaroid & Lady Gaga Launch New Line at CES [PICS]”. Mashable (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  93. ^ “Lady Gaga bites back at music producer”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  94. ^ Katz, Basil (ngày 10 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga and jilted producer drop legal dispute”. Reuters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  95. ^ a b Moran, Caitlin (ngày 23 tháng 5 năm 2010). “Come party with Lady Gaga”. The Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  96. ^ Temple, Sarah (ngày 2 tháng 6 năm 2010). “Gaga was to open Jackson's This Is It tour” (bằng tiếng Anh). Tập đoàn Truyền thông Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  97. ^ a b c “The Lady Is a Champ: Lady Gaga Sets Twitter Record”. LiveScience (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  98. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga Claims 1,000th Hot 100 No. 1 with 'Born This Way'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  99. ^ a b Lewis, Randy (ngày 15 tháng 4 năm 2011). “New Lady Gaga single 'Judas' released today”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  100. ^ Corner, Nick (ngày 11 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga Makes Edge Of Glory Official Single?” (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  101. ^ Young, Eleanor (ngày 17 tháng 6 năm 2011). “First Look! Lady Gaga's Edge of Glory video”. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  102. ^ Montgomery, James (ngày 2 tháng 6 năm 2011). “Lady Gaga Crashes Billboard With 1.1 Million” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  103. ^ “Lady Gaga Biopic: 5 Stars Who Could Play the Role”. International Business Times (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  104. ^ Hampp, Andrew (ngày 1 tháng 12 năm 2011). “2012 Grammy Awards: Album Of The Year”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017.
  105. ^ “The 500 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  106. ^ Daw, Robbie (ngày 12 tháng 12 năm 2011). “Lady Gaga's "Marry The Night": Will Facebook Campaign Help It Chart Better?” (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  107. ^ McIntyre, Hugh (ngày 24 tháng 6 năm 2023). “Will Lady Gaga Break With Tradition And Submit 'Bloody Mary' For A Grammy?”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2023.
  108. ^ Deerwester, Jayme (ngày 19 tháng 7 năm 2016). “Lady Gaga, Taylor Kinney split after 5 years”. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  109. ^ Vulpo, Mike (ngày 19 tháng 7 năm 2016). “Lady Gaga and Taylor Kinney Split After 5 Years Together: A Timeline of Their Romance” (bằng tiếng Anh). E! News. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  110. ^ “Lady Gaga Cancels Remaining 'Born This Way Ball' World Tour Dates To Have Hip Surgery” (bằng tiếng Anh). Capital FM. ngày 14 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  111. ^ Waddell, Ray (ngày 14 tháng 2 năm 2013). “Lady Gaga Tour Cancellation: A Look at the Damage”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  112. ^ Chuyến lưu diễn thu về 164,1 triệu USD vào năm 2012 và 22,5 triệu USD vào năm 2013.
    • “2012 Pollstar Year End Top 50 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
    • “2013 Pollstar Year End Top 100 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  113. ^ Vena, Jocelyn (ngày 14 tháng 9 năm 2011). “Lady Gaga Is 'The Biggest,' Tony Bennett Says” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  114. ^ Herrera, Monica (ngày 28 tháng 1 năm 2011). “Lady Gaga, Elton John Duet Won't Appear On Film Soundtrack”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  115. ^ Osei, Anthony (ngày 24 tháng 5 năm 2011). “Listen: The Lonely Island f/ Justin Timberlake & Lady Gaga "3-Way (The Golden Rule)"”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  116. ^ Perpetua, Mathew (ngày 17 tháng 10 năm 2011). “Lady Gaga, Bono Rock For Clinton Foundation”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  117. ^ Gorman, Bill (ngày 25 tháng 11 năm 2011). “TV Ratings Thursday: CBS Tops Thanksgiving Night Of Repeats And Specials, But...”. TV by the Numbers (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  118. ^ Maloney, Devon (ngày 19 tháng 5 năm 2012). “Hear Lady Gaga's Cartoony, 90-Second 'Simpsons' Tune”. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  119. ^ “Lady Gaga To Launch Lady Gaga Fame, The First Fragrance From Haus Laboratories” (bằng tiếng Anh). PR Newswire. ngày 14 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  120. ^ Grinnell, SunHee (ngày 1 tháng 10 năm 2012). “Lady Gaga: Breaking Ground on Her Fame”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  121. ^ Bychawski, Adam (ngày 31 tháng 5 năm 2012). “Lady Gaga's manager promises singer will deliver an 'insane' third album”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  122. ^ Copsey, Nick (ngày 5 tháng 8 năm 2012). “Lady GaGa's new album to be called 'ARTPOP'” (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  123. ^ Vena, Jocelyn (ngày 18 tháng 9 năm 2013). “Lady Gaga's ARTPOP Isn't An Album, But 'A Night At The Club'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  124. ^ Dredge, Stuart (ngày 12 tháng 8 năm 2013). “Lady Gaga Applause single released early after fans fail to plug leaks”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  125. ^ “2013/38. heti Single (track) Top 40 lista” (bằng tiếng Hungary). Slágerlisták. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  126. ^ “Lady Gaga's Song Aura Featured in Machete Kills” (bằng tiếng Anh). Capital FM. ngày 10 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  127. ^ “Machete Kills (2013)” (bằng tiếng Anh). Rotten Tomatoes. ngày 11 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  128. ^ Gire, Dann (ngày 2 tháng 1 năm 2014). “Dann & Raymond's winning 'Woofers'”. Daily Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  129. ^ Lipshultz, Jason (ngày 22 tháng 10 năm 2013). “Lady Gaga: R. Kelly Duet 'Do What U Want' Is Now 'ARTPOP's' Second Single”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  130. ^ “2013/43. heti Single (track) Top 40 lista” (bằng tiếng Hungary). Slágerlisták. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  131. ^ “Reviews for ARTPOP by Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  132. ^ Brown, Helen (ngày 7 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga, Artpop, review”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  133. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga Scores Second No. 1 Album With 'ARTPOP'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  134. ^ Siegel, Ben (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Lady Gaga dazzles fans with fun, solid show”. The Buffalo News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  135. ^ Mompellio, Gabriel (ngày 28 tháng 3 năm 2014). “G.U.Y.: Lady Gaga” (bằng tiếng Ý). Radio Airplay Italy. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  136. ^ a b Hampp, Andrew (ngày 6 tháng 3 năm 2015). “Inside Lady Gaga's Latest Reinvention (It's All Part of a Long-Term Plan)”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  137. ^ Rivera, Zayda (ngày 17 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga hosts 'Saturday Night Live,' plays future self without fame or applause”. Daily News (bằng tiếng Anh). New York. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  138. ^ Messer, Lesley (ngày 17 tháng 10 năm 2013). “Lady Gaga Teams Up With the Muppets and Adorable Photos Result” (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  139. ^ Grow, Kory (ngày 18 tháng 12 năm 2013). “Gaga and Christina's Wild 'Voice' Duet”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  140. ^ Farber, Jim (ngày 29 tháng 3 năm 2014). “Lady Gaga brings signature over-the-top style, familiar hits to Roseland Ballroom's final shows”. Daily News (bằng tiếng Anh). New York. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  141. ^ Allen, Bob (ngày 5 tháng 12 năm 2014). “Rolling Stones & Lady Gaga Wrap Up Their Tours on Top”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  142. ^ Rivera, Zayda (ngày 5 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga, longtime manager Troy Carter split over 'creative differences': report”. Daily News (bằng tiếng Anh). New York. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  143. ^ Waddell, Ray (ngày 11 tháng 6 năm 2014). “Lady Gaga and Manager Bobby Campbell Join Artist Nation (Exclusive)”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  144. ^ Vena, Jocelyn (ngày 29 tháng 8 năm 2013). “Lady Gaga 'Nailed It' In 'Sin City' Sequel, Joseph Gordon-Levitt Reveals” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  145. ^ “Lady Gaga for Versace confirmed”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  146. ^ “Tony Bennett & Lady Gaga: Cheek to Cheek Album of Classic Jazz Standards To Be Released September 23” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Toronto: Universal Music Canada. ngày 29 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  147. ^ “Lady GaGa is most talented artist I've ever met, says Tony Bennett” (bằng tiếng Anh). Digital Spy. ngày 6 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  148. ^ Gibson, Megan (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Lady Gaga Unveils Cover Art For Duet Album With Tony Bennett”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  149. ^ “Cheek to Cheek – Tony Bennett and Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  150. ^ Sullivan, Caroline (ngày 18 tháng 9 năm 2014). “Tony Bennett & Lady Gaga review – Gaga is a wonder”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  151. ^ Reich, Howard (ngày 19 tháng 9 năm 2014). “Lady Gaga and Tony Bennett meet 'Cheek to Cheek'”. Chicago Tribune (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  152. ^ Caulfield, Keith (ngày 1 tháng 10 năm 2014). “Tony Bennett & Lady Gaga's 'Cheek To Cheek' Debuts at No. 1”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  153. ^ Rosen, Christopher (ngày 8 tháng 2 năm 2015). “Grammy Winners List For 2015 Includes Beyoncé, 'Frozen' & Kendrick Lamar”. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  154. ^ “Tony Bennett & Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!” (bằng tiếng Anh). PBS. ngày 15 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  155. ^ “Lady Gaga to perform with Tony Bennett on New Year's Eve”. Business Standard (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  156. ^ Lewis, Barry (ngày 16 tháng 2 năm 2015). “Our editor congratulated her: Lady Gaga is engaged”. Times-Herald Record (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  157. ^ Stecker, Erin (ngày 8 tháng 2 năm 2016). “Lady Gaga's 8 Best Live Performances”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  158. ^ Lee, Ashley (ngày 23 tháng 2 năm 2015). “Oscars 2015: Lady Gaga's 'The Sound of Music' Medley Dominated Social Media”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  159. ^ Gallo, Phil (ngày 27 tháng 1 năm 2015). “Diane Warren on Her Lady Gaga Collaboration for New Documentary 'The Hunting Ground'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
    “View Awards by Year: 2015” (bằng tiếng Anh). International Press Academy. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
    Hetter, Katia (ngày 28 tháng 2 năm 2016). “The 2016 Oscars winners list” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  160. ^ Sun, Rebecca (ngày 30 tháng 9 năm 2015). “Lady Gaga to Be Honored as Billboard's 2015 Woman of the Year, Lifetime to Televise Annual Event”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  161. ^ a b “Lady Gaga To Receive First-Ever Contemporary Icon Award” (bằng tiếng Anh). Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ. ngày 23 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  162. ^ a b David, Ehrlich (ngày 10 tháng 1 năm 2016). “Watch Lady Gaga's Emotional Speech at 2016 Golden Globes”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  163. ^ Falcone, Dana Rose (ngày 10 tháng 9 năm 2015). “Lady Gaga joins American Horror Story Season 5” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  164. ^ Murphy, Shaunna (ngày 13 tháng 1 năm 2016). “'American Horror Story': 7 Things We Need To See In The 'Hotel' Finale” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  165. ^ Piere, Kerry (ngày 2 tháng 10 năm 2015). “Tom Ford Debuts Spring 2016 With Lady Gaga”. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  166. ^ a b Katz, Jessie (ngày 8 tháng 1 năm 2016). “Lady Gaga & Taylor Kinney Are Naked & 'Making Love for Peace' on New Mag Cover”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  167. ^ Krauser, Emily (ngày 21 tháng 3 năm 2016). “Lady Gaga Nabs Editor of the Year at Fashion Los Angeles Awards”. Entertainment Tonight (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  168. ^ “Lady Gaga Wins Rave Reviews for National Anthem Before Super Bowl 50” (bằng tiếng Anh). ESPN. ngày 8 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  169. ^ Lockett, Dee (ngày 2 tháng 2 năm 2016). “Lady Gaga Will Perform a David Bowie Tribute at Grammys” (bằng tiếng Anh). Vulture.com. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  170. ^ Lynch, Joe (ngày 29 tháng 2 năm 2016). “2016 Oscars: Ranking the Musical Performances”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  171. ^ a b Gardner, Chris (ngày 4 tháng 2 năm 2016). “Lady Gaga To Be Honored By Grammy Museum”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  172. ^ Lindner, Emilee (ngày 12 tháng 9 năm 2017). “Lady Gaga Says Her Success Led To Her Breakup With Taylor Kinney” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  173. ^ Diblin, Emma (ngày 6 tháng 10 năm 2016). “8 Things We Learned From 'American Horror Story: Roanoke' Chapter 4”. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  174. ^ Snetiker, Marc (ngày 15 tháng 9 năm 2016). “American Horror Story 6 premiere recap: 'Chapter 1'”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  175. ^ Stedman, Alex (ngày 16 tháng 11 năm 2016). “'American Horror Story' Season Finale Recap: 'Chapter 10' Reveals the True Survivor of 'Roanoke'”. Variety (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  176. ^ Stack, Tim (ngày 27 tháng 8 năm 2015). “Lady Gaga Says American Horror Story Experience Will 'Inform' Her Upcoming Music”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  177. ^ Sadlier, Allison (ngày 15 tháng 9 năm 2016). “Lady Gaga Joanne release date: New album will be out Oct. 21”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  178. ^ “Lescharts.com – Lady Gaga – Perfect Illusion” (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  179. ^ a b Trust, Gary (ngày 13 tháng 2 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Shape' Tops Hot 100, Lady Gaga's 'Reasons' Returns at No. 4”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  180. ^ Redfearn, Dominique (ngày 15 tháng 9 năm 2016). “Who Is Joanne? Behind Lady Gaga's New Album Title”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  181. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2016). “Lady Gaga Scores Her Fourth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Joanne'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  182. ^ Nolfi, Joey (ngày 7 tháng 11 năm 2016). “Kelsea Ballerini covers Lady Gaga's Million Reasons”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  183. ^ Rice, Nicholas (ngày 25 tháng 1 năm 2018). “Lady Gaga Teases Music Video For New Piano Version of 'Joanne,' Donates to Lupus Research”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  184. ^ a b “2019 Grammy Winners: Complete List”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  185. ^ McIntyre, Hugh (ngày 2 tháng 10 năm 2016). “Lady Gaga Is Going On Tour To Dive Bars Across America”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  186. ^ “Lady Gaga Super Bowl halftime show to feature hundreds of drones in aerial light show” (bằng tiếng Anh). Fox News. ngày 5 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  187. ^ Schwindt, Oriana (ngày 6 tháng 2 năm 2017). “Super Bowl LI Pulls in 111.3 Million Viewers on Fox, Shy of 2015 Ratings Record”. Variety (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  188. ^ Caulfield, Keith; Trust, Gary (ngày 16 tháng 2 năm 2017). “Lady Gaga's Super Week: Her Sales & Streaming Gains After the Big Game”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  189. ^ Rhiannon, Alexis (ngày 14 tháng 7 năm 2017). “Lady Gaga's Super Bowl Performance Casually Rakes In Six Emmy Noms” (bằng tiếng Anh). Refinery29. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  190. ^ Peterson, Nate (ngày 4 tháng 2 năm 2018). “2018 Super Bowl halftime show: Ranking every performance, from Prince to Coldplay”. CBS Sports (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  191. ^ Brooks, Dave (ngày 2 tháng 3 năm 2017). “How Coachella Gained Lady Gaga After Losing Beyonce”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  192. ^ Kreps, Daniel (ngày 16 tháng 4 năm 2017). “Watch Lady Gaga Debut Surprise New Single 'The Cure' at Coachella”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  193. ^ “Australian-charts.com – Lady Gaga – The Cure” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  194. ^ Copsey, Rob (ngày 6 tháng 2 năm 2016). “Lady Gaga announces Joanne world tour after hit-packed Super Bowl Halftime Show” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  195. ^ Kaufman, Amy (ngày 8 tháng 9 năm 2017). “Lady Gaga's five most revealing moments in the Netflix documentary 'Gaga: Five Foot Two'”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  196. ^ Gonzalez, Sandra (ngày 13 tháng 9 năm 2017). “Lady Gaga will open up about fight with chronic illness in Netflix documentary” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  197. ^ Kreps, Daniel (ngày 3 tháng 2 năm 2018). “Lady Gaga Cancels Remainder of Joanne World Tour Due to 'Severe Pain'”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  198. ^ Allen, Bob (ngày 15 tháng 2 năm 2018). “Lady Gaga's Joanne World Tour Final Numbers: $95 Million Earned & 842,000 Tickets Sold”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
  199. ^ “All Lady Gaga's Acting Roles Leading Up to 'A Star Is Born'”. Entertainment Tonight (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  200. ^ Kilkenny, Katie (ngày 24 tháng 3 năm 2018). “Jennifer Lopez, Jimmy Fallon, Lady Gaga Sponsor Buses to March for Our Lives”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  201. ^ Kreps, Daniel (ngày 30 tháng 3 năm 2018). “Hear Lady Gaga's Powerful Take on Elton John's 'Your Song'”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  202. ^ A Star Is Born (2018)” (bằng tiếng Anh). Rotten Tomatoes. ngày 5 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  203. ^ 'A Star Is Born': Our intimate conversation with Lady Gaga and Bradley Cooper”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  204. ^ Tailor, Leena (ngày 4 tháng 9 năm 2018). “How Lady Gaga Conquered Music, Fashion and Film in Just a Decade”. Entertainment Tonight (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  205. ^ Roxborough, Scott (ngày 31 tháng 8 năm 2018). “Venice: Lady Gaga on Bradley Cooper Bringing Out Her 'Vulnerability' for 'A Star Is Born'”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  206. ^ Bradshaw, Peter (ngày 31 tháng 8 năm 2018). “A Star Is Born review – Lady Gaga mesmerises in Streisand's shoes”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  207. ^ Zacharek, Stephanie (ngày 31 tháng 8 năm 2018). “Lady Gaga Delivers a Knockout Performance in 'A Star Is Born'”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  208. ^ a b c d e Các giải thưởng và đề cử cho Vì sao vụt sáng:
    • Giải Oscar: Macke, Johnni (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Oscars 2019 Winners: The Complete List” (bằng tiếng Anh). E! News. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải BAFTA: “The full list of nominations for the Baftas 2019”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh: Tapley, Kristopher (ngày 13 tháng 1 năm 2019). “'Roma,' 'The Americans' and 'The Marvelous Mrs. Maisel' Win Top Critics' Choice Honors”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Quả cầu vàng: “2019 Golden Globes Winners: Complete List”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải thưởng Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh: “National Board of Review Announces 2018 Award Winners”. Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Vệ tinh: “2018 Winners” (bằng tiếng Anh). International Press Academy. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh: Nordyke, Kimberly (ngày 12 tháng 12 năm 2018). “SAG Awards: Full List of Nominations”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  209. ^ Hughes, Hilary (ngày 21 tháng 4 năm 2018). “Bradley Cooper Calls Lady Gaga's 'A Star Is Born' Performance 'A Revelation'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  210. ^ Gotrich, Lars (ngày 27 tháng 9 năm 2018). “Hear 'Shallow,' Lady Gaga's Slow-Burning Power Ballad From 'A Star Is Born'” (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  211. ^ Úc: “Lady Gaga and Bradley Cooper hit #1 with Shallow” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 27 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Áo: “Lady Gaga & Bradley Cooper – Shallow” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Ireland: White, Jack (ngày 12 tháng 10 năm 2018). “Official Irish Singles Chart: Lady Gaga scores her sixth Irish Number 1 single with Bradley Cooper duet Shallow” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    New Zealand: “NZ Top 40 Singles Chart” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. ngày 5 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Thụy Điển: “Swedishcharts.com – Lady Gaga & Bradley Cooper – Shallow” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Thụy Sĩ: “Hitparade.ch – Lady Gaga & Bradley Cooper – Shallow” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Anh Quốc: Myers, Justin (ngày 26 tháng 10 năm 2018). “Lady Gaga and Bradley Cooper score the Official Chart double as Shallow becomes Gaga's fifth UK Number 1” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Hoa Kỳ: Trust, Gary (ngày 4 tháng 3 năm 2019). “Lady Gaga & Bradley Cooper's 'Shallow' Surges to No. 1 on Billboard Hot 100, Fueled by Oscars Gains”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  212. ^ “A Star Is Born [Original Motion Picture Soundtrack] by Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  213. ^ a b Kennedy, Mark (ngày 4 tháng 10 năm 2018). “Review: 'A Star Is Born' soundtrack is a five-star marvel”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  214. ^ Beaumont-Thomas, Ben (ngày 5 tháng 10 năm 2018). “A Star Is Born soundtrack review – instant classics full of Gaga's emotional might”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  215. ^ Caulfield, Keith (ngày 14 tháng 10 năm 2018). “Lady Gaga & Bradley Cooper's 'A Star Is Born' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  216. ^ Copsey, Rob (ngày 2 tháng 9 năm 2019). “Taylor Swift's Lover debuts at Number 1 in America with the biggest one-week sales since her last album Reputation” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  217. ^ Úc: “A Star Is Born Jumps To #1” (bằng tiếng Anh). Australian Recording Industry Association. ngày 27 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Canada: “Lady Gaga Chart History: Billboard Canadian Albums”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Ireland: White, Jack (ngày 12 tháng 10 năm 2018). “The A Star Is Born soundtrack bests Twenty One Pilots for Official Irish Albums Chart Number 1” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    New Zealand: “Charts.org.nz – Soundtrack / Lady Gaga / Bradley Cooper – A Star Is Born” (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
    Anh Quốc: Myers, Justin (ngày 12 tháng 10 năm 2018). “Lady Gaga tops Official Albums Chart for fourth time thanks to A Star Is Born” (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  218. ^ 'A Star Is Born' Soundtrack Is Certified Double Platinum in U.S.”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  219. ^ “2020 Grammy Awards: Winners List”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  220. ^ “BAFTA Awards: 'The Favourite' Dominates With 7 Wins, But 'Roma' Claims Top Prize 2019”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  221. ^ Spanos, Brittany (ngày 10 tháng 2 năm 2019). “Grammys 2019: Watch Lady Gaga's Triumphant, Glam-Rock 'Shallow' Performance”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  222. ^ Lynch, Joe (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Lady Gaga & Bradley Cooper Bring the House Down With 'Shallow' at 2019 Oscars”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  223. ^ Respers France, Lisa (ngày 16 tháng 10 năm 2018). “Lady Gaga thanks her 'fiancé' during speech” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  224. ^ Henderson, Cydney (ngày 19 tháng 2 năm 2019). “Lady Gaga and Christian Carino call off their engagement ahead of the Academy Awards”. USA Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  225. ^ Nolfi, Joel (ngày 7 tháng 8 năm 2018). “Lady Gaga announces Las Vegas residency show details”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  226. ^ Hale, Andreas (ngày 29 tháng 12 năm 2018). “Lady Gaga Delivers the Show She Was Born to Perform With 'Enigma'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  227. ^ Wood, Mikael (ngày 21 tháng 1 năm 2019). “Review: In Las Vegas, Lady Gaga solves the problem of 'A Star Is Born'”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  228. ^ Thompson, Courtney (ngày 23 tháng 11 năm 2019). “Lady Gaga's new holiday lipstick is already No. 1 on Amazon” (bằng tiếng Anh). CNN. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  229. ^ Peters, Mitchell (ngày 18 tháng 4 năm 2020). “Lady Gaga Says Boyfriend Michael Polansky Is the 'Love of My Life': Watch”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  230. ^ Rettig, James (ngày 6 tháng 5 năm 2020). “Lady Gaga's Chromatica Is Now Out 5/29”. Stereogum (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  231. ^ Chromatica by Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Hoa Kỳ: Metacritic. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  232. ^ “Lady Gaga lands fourth #1 album” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 6 tháng 6 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    “Lady Gaga Has This Week's No. 1 Album”. FYIMusicNews (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    “Top Albums (Week 23, 2020)” (bằng tiếng Pháp). Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia Pháp. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    “Album – Classifica settimanale WK 23 (dal 29.05.2020 al 04.06.2020)” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    Paine, Andre (ngày 5 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga scores fastest-selling album of 2020 so far”. Music Week (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga Scores Sixth No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Chromatica'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  233. ^ Rowley, Glenn (ngày 25 tháng 2 năm 2020). “Lady Gaga Is About to Drop Her New Single 'Stupid Love' and We Are Not Calm: Find Out the Release Date”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  234. ^ Aniftos, Rania (ngày 15 tháng 5 năm 2020). “Lady Gaga & Ariana Grande's 'Rain on Me' Collaboration Is Coming Really Soon”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  235. ^ Shafer, Ellise (ngày 14 tháng 3 năm 2021). “Grammys 2021 Winners List”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  236. ^ Trust, Gary (ngày 1 tháng 6 năm 2020). “Lady Gaga & Ariana Grande's 'Rain on Me' Debuts at No. 1 on Billboard Hot 100”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  237. ^ a b Horton, Adrian (ngày 31 tháng 8 năm 2020). “MTV VMAs 2020: Lady Gaga dominates during unusual pandemic broadcast”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  238. ^ Lukas, Erin (ngày 17 tháng 9 năm 2020). “Watch Lady Gaga Lead a Sing-Along”. InStyle (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  239. ^ a b c Frankenberg, Eric (ngày 26 tháng 10 năm 2022). “Lady Gaga Finishes The Chromatica Ball With $112 Million in Stadiums”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  240. ^ Nolfi, Joey (ngày 20 tháng 1 năm 2021). “Watch Lady Gaga power through national anthem at Joe Biden's inauguration”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  241. ^ Minh Khuê (ngày 27 tháng 2 năm 2021). “Chó cưng an toàn sau khi Lady Gaga treo thưởng "khủng"”. Báo Người Lao Động. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  242. ^ “Accused shooter in Lady Gaga dog theft mistakenly freed”. CNA Lifestyle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  243. ^ “Lady Gaga's 2 French bulldogs recovered unharmed following shooting, theft” (bằng tiếng Anh). WABC-TV. ngày 27 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  244. ^ “Five arrested in Lady Gaga dognapping case – including the woman who returned them”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 29 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  245. ^ Levenson, Michael (ngày 5 tháng 12 năm 2022). “Man Is Sentenced to 21 Years in Shooting of Lady Gaga's Dog Walker”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  246. ^ Aniftos, Rania (ngày 6 tháng 4 năm 2021). “Lady Gaga & Dom Pérignon Announce The Queendom”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  247. ^ Darville, Jordan (ngày 30 tháng 8 năm 2021). “Lady Gaga shares Dawn Of Chromatica remix album release date, tracklist”. The Fader (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  248. ^ Grein, Paul (ngày 1 tháng 10 năm 2021). “Lady Gaga & Tony Bennett's 'Love for Sale' Makes It Just Under the Wire for 2022 Grammy Eligibility”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  249. ^ Love for Sale”. Metacritic (bằng tiếng Anh). Fandom, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  250. ^ Caulfield, Keith (ngày 10 tháng 10 năm 2021). “Taylor Swift's 'Fearless (Taylor's Version)' Returns to No. 1 on Billboard 200”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  251. ^ Kaufman, Gil (ngày 19 tháng 7 năm 2021). “Lady Gaga & Tony Bennett to Celebrate Friendship With 'One Last Time' Shows at Radio City”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  252. ^ Willman, Chris (ngày 15 tháng 9 năm 2021). “Tony Bennett and Lady Gaga Partner With ViacomCBS for Three Specials, to Air on CBS, MTV and Paramount Plus”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  253. ^ Nolfi, Joey (ngày 9 tháng 12 năm 2021). “Lady Gaga gets sweet and sassy with Tony Bennett in first MTV Unplugged footage”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  254. ^ Atkinson, Katie (ngày 3 tháng 4 năm 2022). “Here Are the 2022 Grammy Awards Winners: Full List”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  255. ^ Kemp, Ella (ngày 27 tháng 5 năm 2021). “Lady Gaga performs 'Smelly Cat' with Lisa Kudrow on the 'Friends' reunion special”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  256. ^ Fleming, Mike Jr. (ngày 1 tháng 11 năm 2019). “Lady Gaga, Ridley & Giannina Scott Team On Film About Assassination Of Gucci Grandson Maurizio; Gaga To Play Convicted Ex-Wife Patrizia Reggiani”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  257. ^ Aloian, Addison (ngày 29 tháng 10 năm 2021). “Watch Lady Gaga Infiltrate the Gucci Family Empire in the Second House of Gucci Trailer”. V (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  258. ^ Heritage, Stuart (ngày 3 tháng 11 năm 2021). “Madness in her method: Did Lady Gaga really stay in character for 18 months?”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  259. ^ Malkin, Mark (ngày 15 tháng 12 năm 2021). “How Lady Gaga Protected Herself While Making 'House of Gucci': No Actor 'Should Push Themselves to That Limit'”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  260. ^ “House of Gucci” (bằng tiếng Anh). Rotten Tomatoes. ngày 24 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  261. ^ Các đề cử cho Gia tộc Gucci:
    • Giải BAFTA: Ritman, Alex (ngày 3 tháng 2 năm 2022). “BAFTA Awards Nominations: 'Dune' Leads Pack in Diverse List Full of Surprises”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Lựa chọn của Nhà phê bình Điện ảnh: Verhoeven, Beatrice (ngày 13 tháng 12 năm 2021). “'West Side Story,' 'Belfast' Lead 2022 Critics Choice Film Nominations”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Quả cầu vàng: Buchanan, Kyle (ngày 13 tháng 12 năm 2021). “Golden Globes Nominations 2022: The Complete List”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    • Giải của Hội phê bình phim New York: Hipes, Patrick (ngày 3 tháng 12 năm 2021). “'Drive My Car' Named Best Film By New York Film Critics Circle; 'West Side Story', 'Licorice Pizza', Benedict Cumberbatch, Lady Gaga Take Other Prizes – Complete Winners List”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
    • Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh: Lang, Brent; Moreau, Jordan (ngày 12 tháng 1 năm 2022). “SAG Nominations: 'House of Gucci' and 'Power of the Dog' Score Big; 'Succession' and 'Ted Lasso' Lead TV”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  262. ^ Tangcay, Jazz (ngày 27 tháng 4 năm 2022). “Lady Gaga Announces New Single From 'Top Gun: Maverick' Film, 'Hold My Hand'”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  263. ^ Dalley, Hannah (ngày 4 tháng 5 năm 2022). “Tom Cruise Praises Lady Gaga's 'Top Gun' Song, Reveals She Helped Compose the Score: 'Her Talent Is Just Boundless'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  264. ^ Garcia, Thania (ngày 12 tháng 3 năm 2023). “Watch Lady Gaga Strip Down 'Hold My Hand' in an Intimate Oscars Performance Dedicated to Tony Scott”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  265. ^ “The International Press Academy Announces Winners for the 27th Annual Satellite Awards” (bằng tiếng Anh). International Press Academy. ngày 3 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  266. ^ Nolfi, Joey (ngày 7 tháng 3 năm 2022). “Lady Gaga finally revives Chromatica Ball tour with new 2022 concert dates”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  267. ^ “2022 Year-End Boxscore Charts”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  268. ^ “President Biden Announces Key Appointments to Boards and Commissions” (bằng tiếng Anh). whitehouse.gov. ngày 13 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
  269. ^ Dunworth, Liberty (ngày 14 tháng 9 năm 2023). “The Rolling Stones' 'Hackney Diamonds' features Paul McCartney, Lady Gaga, Elton John and Stevie Wonder”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  270. ^ Sharf, Zack (ngày 4 tháng 8 năm 2022). “Lady Gaga Confirms 'Joker 2' Role Opposite Joaquin Phoenix in New Musical Teaser”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2023.
  271. ^ “Michael Jackson's style influence lives on” (bằng tiếng Anh). CNN. ngày 23 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  272. ^ Rap, Up (ngày 19 tháng 3 năm 2012). “Lady Gaga on Whitney Houston: 'she's the greatest of all time'”. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  273. ^ “Read Lady Gaga's Spiritual Tribute to Prince”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  274. ^ Goodwyn, Tom (ngày 10 tháng 6 năm 2011). “Lady Gaga: Born This Way' was inspired by Madonna and Prince'. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  275. ^ Werde, Bill (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga 'Born This Way' Cover Story”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  276. ^ Williott, Carl (ngày 12 tháng 9 năm 2013). “Lady Gaga Apologizes To Christina Aguilera For Their Real/Imagined Feud On 'Watch What Happens'”. Idolator (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  277. ^ “Janet Jackson comeback: 7 pop stars she influenced”. Hello! (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  278. ^ Germanotta, Stefani (ngày 5 tháng 8 năm 2011). “Blonde On Blonde: Lady Gaga Interviews Debbie Harry”. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  279. ^ Vena, Jocelyn (ngày 20 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga Reveals One Question 'Changed My Life' In MTV Special” (bằng tiếng Anh). MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  280. ^ Petridis, Alexis (ngày 9 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga's direct line to Andy Warhol”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
    Still, Jennifer (ngày 20 tháng 5 năm 2011). “Lady GaGa: 'I was inspired by musical theatre'” (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
    Thomson, Graeme (ngày 6 tháng 9 năm 2009). “Soundtrack of my life: Lady Gaga”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  281. ^ “Madonna Talks Divorce, Lady Gaga & Being A 'Geek' In High School”. Access Hollywood (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 10 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  282. ^ Dingwall, John (ngày 27 tháng 11 năm 2009). “The Fear Factor; Lady Gaga used tough times as inspiration for her new album”. Daily Record (bằng tiếng Anh). tr. 48–49. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  283. ^ Pearsons, Katie (ngày 27 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga: 'Iron Maiden changed my life'”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  284. ^ “Lady Gaga: Huge Black Sabbath Fan?” (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 5 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  285. ^ Williams, Tia (ngày 19 tháng 7 năm 2014). “10 Ways That Marilyn Manson Inspired Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). VH1. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  286. ^ Carroll, Grace (ngày 18 tháng 7 năm 2012). “Marilyn Manson: 'I have a hard time liking Lady Gaga'”. Gigwise (bằng tiếng Anh). Giant Digital. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  287. ^ Montgomery, James (ngày 27 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga Recalls Beyoncé's Inspiration in MTV's 'Inside the Outside'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  288. ^ Warrington, Ruby (ngày 22 tháng 2 năm 2009). “Lady Gaga: ready for her close-up”. The Sunday Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  289. ^ a b Van Meter, Jonathan (ngày 10 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga: Our Lady of Pop”. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  290. ^ a b Dresdale, Andrea (ngày 26 tháng 9 năm 2011). “Lady Gaga Says Cher's Outfits Inspired Her Own Crazy Style” (bằng tiếng Anh). ABC News Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  291. ^ “Lady Gaga buys McQueen armadillo boots at charity auction”. Harper's Bazaar (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  292. ^ a b c Hattie, Collins (ngày 14 tháng 12 năm 2008). “Lady GaGa: the future of pop?”. The Sunday Times. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  293. ^ Ginsberg, Merle (ngày 20 tháng 3 năm 2014). “Designer's dish: A Conversation With Donatella Versace”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  294. ^ Larry King Live – Interview with Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). CNN. ngày 1 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  295. ^ “TIME 100: Lady Gaga on Her Biggest Influence”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  296. ^ Bushan, Nyay (ngày 28 tháng 10 năm 2011). “Lady Gaga Reveals Love of Books by Indian Philosopher Osho: 'I Am Kind of an Indian Hippie'”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  297. ^ “Lady Gaga liberated through reinvention”. The Times of India (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  298. ^ Deflem 2017, tr. 190.
  299. ^ Yarborough, Chuck (ngày 19 tháng 5 năm 2014). “Lady Gaga is so unusual – and fun! – in a marathon Quicken Loans Arena dance party (Review)”. The Plain Dealer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  300. ^ Robin, Iris (ngày 21 tháng 11 năm 2013). “Album Review: ARTPOP by Lady Gaga”. The Varsity (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
    Kristobak, Ryan (ngày 20 tháng 5 năm 2014). “Comparing The Top Artists, Past And Present, By Vocal Range”. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  301. ^ Dicker 2017, tr. ii.
  302. ^ Sciarretto, Amy (ngày 21 tháng 10 năm 2010). “Lady Gaga Doesn't Lip Sync” (bằng tiếng Anh). ArtistDirect. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  303. ^ Copsey, Robert (ngày 10 tháng 2 năm 2011). “Lady GaGa announces next single title”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  304. ^ Blauvelt, Christian (ngày 23 tháng 2 năm 2011). “Lady Gaga talks early struggles, denies lip-synching, shouts-out Liza Minnelli and Marisa Tomei at Madison Square Garden”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  305. ^ Sawdey, Evan (ngày 12 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa The Fame”. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  306. ^ Love, Ryan (ngày 23 tháng 3 năm 2011). “Lady GaGa: 'LP shows songwriting ability'”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  307. ^ Reynolds, Simon (ngày 22 tháng 1 năm 2010). “The 1980s revival that lasted an entire decade”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  308. ^ “Happening Wednesday: Lady Gaga, Warped Tour and more”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
    Harrington, Jim (ngày 16 tháng 3 năm 2009). “Review: Lady Gaga delivers crazy dance-pop show”. Mercury News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
    Petridis, Alexis (ngày 3 tháng 1 năm 2009). “Lady Gaga: The Fame”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  309. ^ “Lady Gaga: Album Guide”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  310. ^ Sheffield, Rob (ngày 20 tháng 5 năm 2011). “Lady Gaga, 'Born This Way'”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  311. ^ Perpetua, Matthew (ngày 23 tháng 3 năm 2011). “Lady Gaga Says She Loves Springsteen, Won't Do Reality TV”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  312. ^ Barker, Andrew (ngày 14 tháng 11 năm 2013). “Album Review: Lady Gaga, 'Artpop'”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  313. ^ Lipshutz, Jason (ngày 5 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga, 'ARTPOP': Track-By-Track Review”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2017.
  314. ^ Clark, Philip (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Why pop-turned-jazz stars just ain't got that swing”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  315. ^ Schnurr, Samantha (ngày 21 tháng 10 năm 2016). “Heartbreak, Loss, Lust and Illusion: Decoding Lady Gaga's Emotional Lyrics From Joanne” (bằng tiếng Anh). E! News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  316. ^ Bliss, Karen (ngày 10 tháng 9 năm 2018). “Lady Gaga Praises 'A Star Is Born' Co-Star Bradley Cooper's Talents at Toronto Premiere: 'He Sings From His Soul'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  317. ^ Shafer, Ellise (ngày 21 tháng 5 năm 2020). “Lady Gaga Talks Mental Health, Mentoring Ariana Grande and Making 'Chromatica' in Zane Lowe Interview”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  318. ^ Willman, Chris (ngày 3 tháng 8 năm 2021). “Tony Bennett and Lady Gaga Reveal 'Love for Sale,' Cole Porter Tribute Album Said to Be Bennett's Last”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  319. ^ Gray II 2012, tr. 96; 183.
  320. ^ GWR 2014, tr. 172.
  321. ^ Smith, Emily Esfahani (ngày 7 tháng 4 năm 2010). “The Pop Singer as Ultimate Predator”. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  322. ^ “The 100 Greatest Music Video Artists of All Time: Staff List”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  323. ^ Ewans, Hannah (ngày 21 tháng 7 năm 2022). “Lady Gaga's Chromatica Ball live in Stockholm: the party we waited for”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  324. ^ Parvis 2010, tr. 61.
  325. ^ Allison & Goethals 2013, tr. 31.
  326. ^ Vena, Jocelyn (ngày 13 tháng 9 năm 2009). “Lady Gaga Lets It Bleed During Eye-Popping VMA Performance” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  327. ^ Roberts, Sorya (ngày 3 tháng 6 năm 2010). “Fans protest Lady Gaga's blood-spattered Monster Ball show in England after shooting spree”. Daily News (bằng tiếng Anh). New York. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  328. ^ Dinh, James (ngày 28 tháng 9 năm 2011). “Lady Gaga Bends Gender, Minds With VMA Monologue” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  329. ^ Kennedy, Gerrick (ngày 14 tháng 11 năm 2011). “Lady Gaga dismisses longtime creative director Laurieann Gibson”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  330. ^ Schiller, Rebecca (ngày 10 tháng 10 năm 2018). “Every Lady Gaga Music Video From 2008 to Today: Watch Her Evolution”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  331. ^ Willman, Chris (ngày 11 tháng 9 năm 2022). “Lady Gaga's Chromatica Ball Brings the Spectacle to Dodger Stadium but Really Soars With Solo Segment: Concert Review”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
  332. ^ Lipshutz, Jason (ngày 9 tháng 12 năm 2010). “Lady Gaga's 8 Wax Figures Unveiled at Madame Tussauds”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  333. ^ “Lady Gaga and the sociology of fame: college course”. The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 17 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  334. ^ Dwyer, Devin (ngày 3 tháng 10 năm 2011). “President Obama Calls Lady Gaga 'A Little Intimidating'” (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  335. ^ Walters, Barbara (ngày 30 tháng 12 năm 2009). “Lady Gaga: 'I Love Androgyny'” (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  336. ^ Silva, Horatio (ngày 4 tháng 3 năm 2010). “The World According to Gaga”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  337. ^ Geier, Thom (ngày 11 tháng 12 năm 2009). “The 100 Greatest Movies.. Trends That Entertained Us Over The Past 10 Years”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). 1079 (74): 84. ISSN 1049-0434.
  338. ^ Flanagan, Hanna (ngày 15 tháng 9 năm 2021). “PEOPLE's Best Dressed Stars of 2021”. People (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  339. ^ “All-Time 100 Fashion Icons”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  340. ^ Roberts, Laura (ngày 14 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga's meat dress divides opinion”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  341. ^ Neel, Julia (ngày 22 tháng 12 năm 2010). “Best Dressed Of The Year”. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  342. ^ Montgomery, James (ngày 15 tháng 12 năm 2010). “Lady Gaga's Meat Dress Tops Time's 'Fashion Statement' List” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  343. ^ Winterman, Denise; Kelly, Jon (ngày 14 tháng 9 năm 2010). “Five interpretations of Gaga's meat dress” (bằng tiếng Anh). BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  344. ^ “Lady Gaga's meat dress headed for D.C. museum” (bằng tiếng Anh). CBS News. ngày 9 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  345. ^ Smith, Troy L. (ngày 9 tháng 9 năm 2015). “Lady Gaga's meat dress enters the Rock and Roll Hall of Fame Thursday”. The Plain Dealer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  346. ^ Odell, Amy (ngày 3 tháng 2 năm 2010). “Lady Gaga dedicates her new 'Little Monsters' tattoo to her fans”. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  347. ^ Hall, Jake (ngày 29 tháng 9 năm 2017). “Lady Gaga Pioneered Online Fandom Culture As We Know It”. Vice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  348. ^ Bort, Julie (ngày 9 tháng 7 năm 2012). “First Looks: Lady Gaga Opens Her Own Social Network To The Public”. Business Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  349. ^ Respers France, Lisa (ngày 20 tháng 1 năm 2011). “Lady Gaga's monster influence” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  350. ^ Lynskey, Dorian (ngày 24 tháng 8 năm 2011). “Lady Gaga and Katy Perry: banned in China for 'being vulgar'”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  351. ^ Shadbolt, Peter. “After three years on the blacklist, China lifts gag on Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  352. ^ Lam, Charles (ngày 29 tháng 6 năm 2016). “Lady Gaga Banned From China Following Dalai Lama Meeting: Report” (bằng tiếng Anh). NBC News. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  353. ^ Guarino, Ben (ngày 29 tháng 6 năm 2016). “China Bans Lady Gaga After Superstar Meets With the Dalai Lama”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  354. ^ Phillips, Tom (ngày 28 tháng 6 năm 2016). “China 'bans Lady Gaga' after Dalai Lama meeting”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  355. ^ Li, Lyric; Zeitchik, Steven (ngày 22 tháng 4 năm 2021). “China Oscars boycott mixes politics with push to curb Hollywood Dominance”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  356. ^ “Friends reunion: BTS, Lady Gaga, Justin Bieber censored in China” (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 28 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2023.
  357. ^ Vena, Jocelyn (ngày 5 tháng 2 năm 2010). “Lady Gaga Explains Her Absence From 'We Are The World' Recording” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  358. ^ Kaufman, Gil (ngày 27 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga Says She Raised $500,000 For Haiti Relief” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  359. ^ Vena, Jocelyn (ngày 21 tháng 3 năm 2011). “Lady Gaga Designs Japanese Tsunami Relief Wristband” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  360. ^ Mangalindan, JP (ngày 29 tháng 3 năm 2011). “Today in Tech: Lady Gaga gives to Zynga, Apple delaying iPhone 5?”. Fortune (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  361. ^ Schwartz, Rob (ngày 14 tháng 4 năm 2011). “Lady Gaga to Appear at MTV Japan Charity Event”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  362. ^ Navarro, Mireya (ngày 29 tháng 8 năm 2012). “Yoko Ono and Sean Lennon Organize Artists Against Fracking”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  363. ^ “Lady Gaga Revealed as LennonOno Peace Honoree”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  364. ^ Chao, Ning (tháng 2 năm 2010). “Going Gaga”. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  365. ^ “Lady Gaga Profile”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  366. ^ González Whitaker, Isabel (ngày 30 tháng 5 năm 2016). “Vice President Joe Biden on His It's On Us Initiative to End Sexual Assault on College Campuses and Teaming Up With Lady Gaga: Exclusive”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  367. ^ Mallenbaum, Carly (ngày 26 tháng 6 năm 2016). “The Dalai Lama and Lady Gaga got together to chat”. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  368. ^ “WHO and Global Citizen announce: 'One World: Together at home' Global Special to support healthcare workers in the fight against the COVID-19 pandemic”. Tổ chức Y tế Thế giới (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  369. ^ Allaire, Christian (ngày 19 tháng 4 năm 2020). “Lady Gaga Hosts the 'One World: Together at Home' Concert in Suitably Minimalist Style”. Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  370. ^ Williams, Ollie (ngày 19 tháng 4 năm 2020). “The Story Behind The World's Biggest Charity Concert: What Was It All For?”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  371. ^ Brodsky, Rachel (ngày 18 tháng 1 năm 2021). “Lady Gaga denounces racism and white supremacy in award speech: 'Black life matters. Blackness matters. Black joy matters'”. The Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  372. ^ “Oprah Teams Up With Lady Gaga for Born This Way Foundation Launch”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  373. ^ “Lady Gaga Testifies at Harvard on Behalf of Born This Way Foundation” (bằng tiếng Anh). Berkman Klein Center for Internet & Society. ngày 29 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  374. ^ “Office Depot and Born This Way Foundation Connect with the Youth Market at Highly Anticipated Teen Award Show” (bằng tiếng Anh). Business Wire. ngày 17 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  375. ^ Krasny, Ros (ngày 1 tháng 3 năm 2012). “Lady Gaga lends star wattage to youth empowerment”. Reuters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  376. ^ “Menace of cyber bullies”. Cape Argus (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  377. ^ “Yale and Lady Gaga host teens to talk about emotions” (bằng tiếng Anh). Yale News. ngày 25 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
  378. ^ “Lady Gaga and Intel Join Forces to Fight Online Harassment”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  379. ^ Wahba, Phil (ngày 27 tháng 4 năm 2016). “Lady Gaga and Elton John Are Teaming Up for a New Line at Macy's”. Fortune (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  380. ^ Gajanan, Mahita (ngày 12 tháng 6 năm 2017). “Lady Gaga Gets Her Own Line of Drinks at Starbucks”. Fortune (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  381. ^ Legaspi, Althea (ngày 29 tháng 6 năm 2017). “See Lady Gaga Surprise Students as Substitute Teacher in PSA”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  382. ^ Bajgrowicz, Brooke (ngày 14 tháng 11 năm 2018). “Lady Gaga Brings Pizza, Coffee and Gift Cards to Disaster Shelter Amid California Fires”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  383. ^ “Lady Gaga shifts focus toward mental health after Oscar win” (bằng tiếng Anh). Film Industry Network. ngày 4 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  384. ^ “Lady Gaga announces expansion of Teen Mental Health Program”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  385. ^ Trepany, Charles (ngày 22 tháng 9 năm 2020). “Lady Gaga and her mother offer candid advice for opening up about mental health to parents”. USA Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  386. ^ Phần mô tả: Gaga, Lady (2020). Channel Kindness: Stories of Kindness and Community (bằng tiếng Anh). Pan Macmillan. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023 – qua Google Books.
  387. ^ Bossi, Andrea (ngày 1 tháng 9 năm 2020). “Lady Gaga, Born This Way Foundation Launch 21 Days Of Kindness Campaign”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  388. ^ Newbold, Alice (ngày 6 tháng 4 năm 2021). “Lady Gaga & Dom Pérignon Are Behind The Most Exquisite Collaboration Of 2021”. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  389. ^ Zylberberg, Shawn (ngày 23 tháng 11 năm 2021). “Dom Pérignon Donates $570,000 to Lady Gaga's Born This Way Foundation”. Wine Spectator (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  390. ^ Tangcay, Jazz (ngày 13 tháng 11 năm 2021). “Lady Gaga, Born This Way Foundation Release 'Power of Kindness' Short for World Kindness Day”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  391. ^ Zak, Dan (ngày 12 tháng 10 năm 2009). “For Gay Activists, The Lady Is a Champ”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  392. ^ Thomas, Matt (ngày 9 tháng 7 năm 2009). “Going Gaga”. Fab (bằng tiếng Anh). 54 (9): 45.
  393. ^ Harrison, Mitchell (ngày 22 tháng 6 năm 2017). “8 Times Lady Gaga Earned Her 'Gay Icon' Title”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  394. ^ Vena, Jocelyn (ngày 7 tháng 5 năm 2009). “Lady Gaga On Success: 'The Turning Point For Me Was The Gay Community'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  395. ^ Lady Gaga (2008). The Fame (Liner notes) (bằng tiếng Anh). Interscope Records. 2726601.
  396. ^ “NewNowNext Awards” (bằng tiếng Anh). Logo TV. ngày 3 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  397. ^ Kane, Matt (ngày 13 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga: A Force for National Security” (bằng tiếng Anh). GLAAD. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  398. ^ Zezima, Katy (ngày 20 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga Goes Political in Maine”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  399. ^ “Gaga: We've Found Our Fierce Advocate”. The Advocate (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  400. ^ “Lady GaGa Performs At EuroPride In Rome” (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 13 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  401. ^ Michaels, Sean (ngày 23 tháng 9 năm 2011). “Lady Gaga to meet with Obama over bullying”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  402. ^ Piatt, Christian (ngày 19 tháng 12 năm 2011). “From Lady Gaga to Rev. Gaga?”. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  403. ^ “Lady Gaga Reads Names of Orlando Victims During L.A. Vigil”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  404. ^ Brown, Jay (ngày 29 tháng 6 năm 2016). “49 Celebrities Honor 49 Victims of Orlando Tragedy” (bằng tiếng Anh). Chiến dịch Nhân quyền. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  405. ^ Weatherby, Taylor (ngày 9 tháng 11 năm 2016). “Lady Gaga Protests Outside Of Trump Tower After Hillary Clinton Loses Election”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  406. ^ Bell, Sadie (ngày 26 tháng 7 năm 2017). “Lady Gaga has a Message for Trump About His Transgender Military Ban”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  407. ^ Leight, Elias (ngày 8 tháng 11 năm 2016). “Lady Gaga: 'Hillary Clinton Is Made of Steel, Is Unstoppable'”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  408. ^ Grinberg, Emanuella (ngày 24 tháng 10 năm 2018). “What it means for the Trump administration to legally define 'sex'” (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  409. ^ “Caitlyn Jenner, Laverne Cox, More Stars Slam Trump's Potential Policy to Roll Back Trans Protections”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  410. ^ Keslen, Ben (ngày 22 tháng 1 năm 2019). “Lady Gaga slams Mike and Karen Pence as 'worst representation' of Christianity” (bằng tiếng Anh). NBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  411. ^ Aviles, Gwen (ngày 28 tháng 6 năm 2019). “Lady Gaga makes surprise appearance outside Stonewall Inn” (bằng tiếng Anh). NBC News. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  412. ^ Molanphy, Chris (ngày 29 tháng 6 năm 2011). “Introducing the Queen of Pop”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  413. ^ “The 100 Greatest Women In Music” (bằng tiếng Anh). VH1. ngày 13 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  414. ^ “Those Elevated Ones. From the Pharaoh to Lady Gaga”. The Warsaw Voice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  415. ^ Moré, María Elena (ngày 13 tháng 11 năm 2010). “The Gaga Effect...” (bằng tiếng Anh). More Than Branding. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  416. ^ Marsico 2012, tr. 77–78.
  417. ^ Graddon, Frankie (ngày 15 tháng 9 năm 2020). “Raising the steaks: The impact of Lady Gaga's meat dress 10 years on”. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  418. ^ “The Greatest Pop Star By Year (1981-2020)”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  419. ^ “100 Best Debut Albums of All Time”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  420. ^ Johnson, Kevin C. (ngày 31 tháng 1 năm 2013). “Lady Gaga helps bring EDM to the masses”. St. Louis Post-Dispatch (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
    Vena, Jocelyn (ngày 12 tháng 12 năm 2011). “Did Lady Gaga Spark EDM Explosion?” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
    Bogart, Jonathan (ngày 10 tháng 7 năm 2012). “Buy the Hype: Why Electronic Dance Music Really Could Be the New Rock”. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  421. ^ Sanneh, Kelefa (ngày 28 tháng 9 năm 2015). “Pop for Misfits”. The New Yorker (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  422. ^ Sheffield, Rob (ngày 23 tháng 6 năm 2012). “Women Who Rock: The 50 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  423. ^ D'Addario, Daniel (ngày 23 tháng 2 năm 2015). “Lady Gaga's Oscar Performance Could Redefine Her Career”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  424. ^ Jakubowski và đồng nghiệp 2017, tr. 122–135.
  425. ^ Chappell, Garrett (ngày 20 tháng 11 năm 2018). “Turning the Tables: Your List Of The 21st Century's Most Influential Women Musicians” (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023.
  426. ^ Vena, Jocelyn (ngày 2 tháng 4 năm 2010). “Miley Cyrus Says Next Album Has A 'Techno Vibe'” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  427. ^ Ziegbe, Mawuse (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Nicki Minaj Open To Lady Gaga Collaboration” (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  428. ^ Still, Jennifer (ngày 13 tháng 5 năm 2011). “Ellie Goulding: "I'm influenced by everyone"”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  429. ^ Piedra, Xavier (ngày 25 tháng 2 năm 2019). “Halsey Gushes Over Lady Gaga at the Oscars: 'I Stan Her to My Grave'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  430. ^ Eames, Tom (ngày 16 tháng 6 năm 2011). “Jennifer Lopez: 'Lady GaGa inspires me'”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  431. ^ “Beyonce: Lady Gaga is most talented pop star”. Elle Canada (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  432. ^ Gale, Alex (ngày 4 tháng 2 năm 2016). “Nick Jonas Talks About His 'Sadistic and Twisted' Role in Frat-Hazing Movie 'Goat'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  433. ^ Doyle, Patrick (ngày 2 tháng 2 năm 2015). “Lady Gaga's Advice to Sam Smith: 'Suffer for Your Art'”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  434. ^ Spanos, Brittany (ngày 14 tháng 12 năm 2016). “Noah Cyrus on What Miley Taught Her, Emotional Debut Single”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  435. ^ Highfill, Samantha (ngày 3 tháng 4 năm 2017). “13 Reasons Why: Get to know series star Katherine Langford”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  436. ^ Moreno, Chino (ngày 25 tháng 1 năm 2010). “MGMT's new album influenced by Lady Gaga and Kanye West”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  437. ^ St. Amand, Jason. “Allie X Puts the 'X' in Your Music #Xperience” (bằng tiếng Anh). Edge Media Network. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  438. ^ Herrera, Monica (ngày 13 tháng 5 năm 2010). “Lady Gaga Surprises 'Paparazzi' Fan Greyson Chance on 'Ellen'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  439. ^ Oswald, Anjelica (ngày 11 tháng 2 năm 2019). “Cardi B said Lady Gaga inspired her 3 years ago and freaked out after finally meeting her at the 2019 Grammys”. Insider.com (bằng tiếng Anh). Insider Inc. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  440. ^ Min, Lio (ngày 22 tháng 4 năm 2020). “Rina Sawayama break through the simulation”. Nylon (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  441. ^ Feeney, Nolan (ngày 17 tháng 9 năm 2020). “What Lady Gaga Taught Blackpink About Being Pop Stars”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  442. ^ @Deezer (ngày 11 tháng 3 năm 2021). “As part of our #WHM celebrations, @madisonbeer has picked a woman that challenges conventions and we couldn't agree more! (@ladygaga)” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua Twitter.
  443. ^ “NU'EST's Ren Reveals What His Reaction Would Be If He Met His Role Model Lady Gaga—It's Super Adorable”. Koreaboo (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  444. ^ Michael, Michael (ngày 15 tháng 10 năm 2018). “Slayyyter is 2018 Pop, Inspired by 2007 Britney, Lindsay, and Paris”. Paper (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  445. ^ @BebeRexha (ngày 13 tháng 2 năm 2017). “Inspired by @chancetherapperk, @Beyonce, @BrunoMars, @Adele, @ladygaga. #AllYourFaultPt1” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua Twitter.
  446. ^ Bree Runway In Conversation With Leomie Anderson PT. 1. Bree Runway (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua YouTube.
  447. ^ Hulton, Anna (ngày 21 tháng 2 năm 2020). “Celeste reveals Lady Gaga is a BIG influence and she 'can't control herself'”. Hits Radio (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  448. ^ Thomson, Jeffrey (ngày 13 tháng 5 năm 2020). “How Kim Petras is Nurturing a New Era of Female-empowered Pop”. Love (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  449. ^ Vaidyanathan, Vaishnavi (ngày 23 tháng 9 năm 2020). “JoJo Siwa Reacts To Being On Time's Most Influential People List, Names Celebrity Inspirations”. International Business Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  450. ^ Hahne, Stephanie (ngày 12 tháng 7 năm 2019). “Pabllo Vittar lista os cinco discos que mudaram sua vida para o TIDAL” [Pabllo Vittar liệt kê năm bản thu đã làm thay đổi cuộc đời cô dành cho TIDAL]. Tenho Mais Discos Que Amigos (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  451. ^ Duboff, Josh (ngày 13 tháng 2 năm 2019). “Sweet but Psycho" Singer Ava Max Is Trying to "Bring Pop Back”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  452. ^ @vmas (ngày 31 tháng 8 năm 2020). “The way @DojaCat is flexing an encyclopedic memory of her favorite @ladygaga and @beyonce #VMA performances (complete with EXACT YEARS) is truly impressive #VMAStanCam” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua Twitter.
  453. ^ How Well Does TWICE Know Each Other? – TWICE Game Show – Vanity Fair. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua YouTube.
  454. ^ Reid, Shaheem (ngày 27 tháng 5 năm 2009). “Kanye West 'Inspired' by Lady Gaga's 'Poker Face' for Kid Cudi Single” (bằng tiếng Anh). MTV News. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  455. ^ “Rachel Zegler GUSHES Over Lady Gaga, Says She's the Reason She's Here (Exclusive)”. Extra (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023 – qua YouTube.
  456. ^ Rowley, Glenn (ngày 5 tháng 4 năm 2022). “You Have to See This Backstage Lovefest Between Lady Gaga, Jon Batiste & SZA at the Grammys: 'This Community Needs You'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  457. ^ Richard, Bailey (ngày 1 tháng 7 năm 2022). “RAYE Shares Exclusive BTS Look at 'Hard Out Here'”. Paper (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  458. ^ Rossignol, Derrick (ngày 16 tháng 6 năm 2022). “Lady Gaga Offers A Heartfelt Co-Sign Of A New Song Written About Her”. Uproxx (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  459. ^ Laufey Sings Taylor Swift, Lady Gaga, and Billie Eilish in a Game of Song Association. Elle (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023 – qua YouTube.
  460. ^ a b Fay-Wei Li; Kathleen M. Pryer; Michael D. Windham (2012). “Gaga, a new fern genus segregated from Cheilanthes (Pteridaceae)”. Systematic Botany (bằng tiếng Anh). 37 (4): 845–860. doi:10.1600/036364412X656626. hdl:10161/5988. S2CID 6871286. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  461. ^ Kaufman, Gil (ngày 26 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga Fans Are Latest To Adopt Musical Gang Signs” (bằng tiếng Anh). MTV News. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  462. ^ Minh Long (ngày 14 tháng 3 năm 2020). “Phát hiện loại bọ nhìn như "quái vật" ở Nicaragua”. Báo Dân Trí. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2023.
  463. ^ Andrew, Scottie (ngày 11 tháng 3 năm 2020). “There's a new insect named for Lady Gaga, and it's every bit as otherworldly as the pop diva” (bằng tiếng Anh). CNN. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  464. ^ Stucky, Richard K.; Covert, Herbert H. (2014). “A new genus and species of early Eocene (Ypresian) Artiodactyla (Mammalia), Gagadon minimonstrum, from Bitter Creek, Wyoming, U.S.A.”. Journal of Vertebrate Paleontology (bằng tiếng Anh). 34 (3): 731–736. Bibcode:2014JVPal..34..731S. doi:10.1080/02724634.2013.827580.
  465. ^ Wheeler, Quentin D. (ngày 16 tháng 9 năm 2012). “New to Nature No 84: Aleiodes gaga”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  466. ^ Areekul Butcher, Buntika; Smith, M. Alex; Sharkey, Mike J.; Quicke, Donald L.J. (2012). “A turbo-taxonomic study of Thai Aleiodes (Aleiodes) and Aleiodes (Arcaleiodes)(Hymenoptera: Braconidae: Rogadinae) based largely on COI barcoded specimens, with rapid descriptions of 179 new species” (PDF). Zootaxa (bằng tiếng Anh). 3457: 1–232. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2014.
  467. ^ “Lady Gaga has her day in Taiwan”. The Washington Post (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  468. ^ Kaufman, Gil (ngày 24 tháng 5 năm 2021). “Lady Gaga Celebrated With 'Born This Way' Day in West Hollywood”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  469. ^ “Artist: Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  470. ^ “Person: Lady Gaga” (bằng tiếng Anh). Hollywood Foreign Press Association. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  471. ^ Singh, Anita (ngày 16 tháng 2 năm 2010). “Brit Awards 2010: Lady Gaga wins a hat-trick of prizes”. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  472. ^ Xem kỷ lục Guinness thế giới của Lady Gaga
  473. ^ “Sophia Loren, Lady Gaga, Herbie Hancock, Joan and Irwin Jacobs, Alice Walton, Maria Bell to Be Honored on October 19th” (bằng tiếng Anh). Americans for the Arts. ngày 6 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  474. ^ “Lady Gaga Honored As Style Icon at CFDA Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  475. ^ “Lady Gaga Becomes First Woman In History To Win An Oscar, Grammy, BAFTA & Golden Globe In Same Year”. Capital FM (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 2 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  476. ^ “The Greatest Pop Star By Year (1981–2020)”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  477. ^ Caulfield, Keith (ngày 12 tháng 9 năm 2010). “Lady Gaga Is Billboard's 2010 Artist of the Year, Ke$ha Takes Top New Act”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  478. ^ “Top Artists – Decade-End”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  479. ^ “Lady Gaga Chart History (Top Dance/Electronic Albums)”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  480. ^ Murray, Gordon (ngày 14 tháng 9 năm 2021). “Lady Gaga's 'Dawn of Chromatica' Crowns Top Dance/Electronic Albums Chart in Record-Setting Week”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  481. ^ Xem danh sách theo danh mục của Lady Gaga
  482. ^ “The 200 Greatest Singers of All Time”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  483. ^ “Lady Gaga Became Singer After Multiple Failed Acting Auditions”. Attitude (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  484. ^ Sun, Rebecca (ngày 12 tháng 1 năm 2016). “Lady Gaga Exits WME for CAA”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  485. ^ Frankenberg, Eric (ngày 27 tháng 2 năm 2019). “Lady Gaga's Touring Earnings Pass Half-Billion Mark as 'Enigma' Grosses Roll in”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  486. ^ “Beyoncé, Troubadour, Forum, Coachella, Billy Strings, Bert Kreischer Among Pollstar 2021 Winners”. Pollstar (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  487. ^ “Top Artists (Digital Singles)” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  488. ^ “Lady Gaga Becomes RIAA's First Female Digital Diamond Award Recipient” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. ngày 15 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  489. ^ McIntyre, Hugh (ngày 12 tháng 4 năm 2023). “Lady Gaga Ties Cardi B And Katy Perry For The Most Diamond-Certified Singles Among Women”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  490. ^ Trust, Gary (ngày 2 tháng 10 năm 2017). “Ask Billboard: Lady Gaga First Artist With Two 7-Million-Selling Downloads”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  491. ^ “First female artist to achieve three 10-million-selling singles”. Kỷ lục Guinness thế giới (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  492. ^ “Justin Bieber edges past Lady Gaga to take Twitter world record”. Kỷ lục Guinness thế giới (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  493. ^ @GWR (ngày 21 tháng 10 năm 2019). “(CG) La Gaga has made a few appearances in GWR books over the past few years, including being confirmed in the 2013 edition as #1 on our Most Famous Celebrity list (ahead of Clooney, Madonna and Bieber). Fantastic that @ladygaga is still powering on & in the pages of #gwr2020!” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023 – qua Twitter.
  494. ^ @GWR (ngày 10 tháng 9 năm 2014). “@austriamonster Thanks for sharing the news AustriaMonster: ) #gwr60” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023 – qua Twitter.
  495. ^ Với các thông tin này, hãy đọc:
    • “The Celebrity 100”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
    • “Lady Gaga Tops Celebrity 100 List”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
    • Stutz, Colin (ngày 30 tháng 6 năm 2014). “Beyonce Tops Forbes Celebrity 100 List, Springsteen, Calvin Harris Also Make the Cut”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
    • Berg, Madeline (ngày 29 tháng 6 năm 2015). “Lady Gaga's Earnings: $59 Million In 2015”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
      “The World's Highest-Paid Celebrities”. Forbes (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
    • Kaufman, Gil (ngày 10 tháng 7 năm 2019). “Taylor Swift Tops Forbes' Highest-Paid Celebrity 100 List in 2019 With $185 Million; BTS Earn First Ranking”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
    • Johnson, Josh (ngày 4 tháng 6 năm 2020). “Billie Eilish, Metallica make 'Forbes' 2020 Highest-Paid Celebrities list” (bằng tiếng Anh). ABC News Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  496. ^ a b “Lady Gaga Tops Forbes' List Of Top-Earning Celebs Under 30”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  497. ^ “Most Powerful Women 2010”. Forbes (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  498. ^ “Power Women”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  499. ^ “The 2010 TIME 100”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  500. ^ Aswad, Jem (ngày 17 tháng 4 năm 2019). “Time 100 List Features Taylor Swift, Lady Gaga, Ariana Grande, BTS, More”. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  501. ^ “Lady Gaga Is 'Time' Magazine's Second Most Influential Icon of the Decade”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 17 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  502. ^ “Music's Top 40 Money Makers 2012”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  503. ^ “Full List: The Best-Paid Celebrities Under 30”. Forbes (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  504. ^ Thompson, Simon (ngày 27 tháng 2 năm 2016). “Interview: The Man Behind The Sound Of Gaga And His Plans For A Lady Gaga Musical In London”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  505. ^ O'Malley Greenburg, Zack (ngày 23 tháng 12 năm 2019). “From Taylor Swift To Dr. Dre: The 10 Top-Earning Musicians Of The Decade”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.

Đọc thêm

  • Kỷ lục Guinness thế giới 2015 (bằng tiếng Anh). Kỷ lục Guinness thế giới. 2014. ISBN 978-1-908843-70-8.
  • Allison, Scott T.; Goethals, George R. (2013). Heroic Leadership: An Influence Taxonomy of 100 Exceptional Individuals (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 978-1-136-23273-2.
  • Deflem, Mathieu (2017). Lady Gaga and the Sociology of Fame: the Rise of a Pop Star in an Age of Celebrity (bằng tiếng Anh). Palgrave Macmillan. ISBN 978-1-137-58468-7.
  • Dicker, Chris (2017). Lady Gaga Biography: The "Mother Monster" of the Music Industry Revealed (bằng tiếng Anh). Digital Publishing Group. ISBN 978-1-370-41794-0.
  • Gray II, Richard J. (2012). The Performance Identities of Lady Gaga: Critical Essays (bằng tiếng Anh). McFarland & Company. ISBN 978-0-7864-9252-7.
  • Jakubowski, Kelly; Finkel, Sebastian; Stewart, Lauren; Müllensiefen, Daniel (tháng 5 năm 2017). “Dissecting an earworm: Melodic features and song popularity predict involuntary musical imagery” (PDF). Psychology of Aesthetics, Creativity, and the Arts (bằng tiếng Anh). 11 (2): 122–135. doi:10.1037/aca0000090. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  • Johnson, Paula (2012). Lady Gaga: A Biography (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 978-1-440-80109-9.
  • Marsico, Katie (2012). Lady Gaga: Pop Singer & Songwriter (bằng tiếng Anh). ABDO Publishing Company. ISBN 978-1-61478-600-9.
  • Morgan, Johnny (2010). Gaga (bằng tiếng Anh). Sterling Publishing. ISBN 978-1-4027-8059-2.
  • Parvis, Sarah (2010). Lady Gaga (bằng tiếng Anh). Andrews McMeel Publishing. ISBN 978-0-7407-9795-8.
  • Tracy, Kathleen A. (2013). Superstars of the 21st Century: Pop Favorites of America's Teens: Pop Favorites of America's Teens (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. ISBN 978-0-313-37737-2.

Liên kết ngoài

Tìm hiểu thêm về
Lady Gaga
tại các dự án liên quan
Tìm kiếm Commons Tập tin phương tiện từ Commons
Tìm kiếm Wikiquote Danh ngôn từ Wikiquote
Tìm kiếm Wikidata Dữ liệu từ Wikidata
  • Website chính thức Sửa đổi này tại Wikidata
  • Lady Gaga trên DMOZ
  • Lady Gaga trên IMDb
  • Lady Gaga trên trang Rotten Tomatoes
  • Lady Gaga trên C-SPAN
  • x
  • t
  • s
Lady Gaga
Album phòng thu
Album nhạc phim
  • A Star Is Born
  • Top Gun: Maverick
Album tổng hợp
  • The Remix
  • Born This Way: The Remix
  • Born This Way: The Collection
  • Dawn of Chromatica
Đĩa mở rộng
Chuyến lưu diễn
Sự kiện quảng bá
Lưu trú hòa nhạc
  • Lady Gaga Live at Roseland Ballroom
  • Lady Gaga Enigma + Jazz & Piano
Phim tài liệu
  • Gaga: Five Foot Two
Truyền hình
  • Lady Gaga Presents the Monster Ball Tour: At Madison Square Garden
  • A Very Gaga Thanksgiving
  • Lady Gaga and the Muppets Holiday Spectacular
  • Tony Bennett and Lady Gaga: Cheek to Cheek Live!
  • Super Bowl LI halftime show
  • One Last Time: An Evening with Tony Bennett and Lady Gaga
Sách
  • Lady Gaga x Terry Richardson
Nước hoa và mĩ phẩm
Thời trang
Bài viết liên quan
  • Cynthia Germanotta (mẹ)
  • Natali Germanotta (em gái)
  • Born This Way Foundation
  • Doll Domination Tour
  • Lady Gaga: Queen of Pop
  • One World: Together at Home
  • "Perform This Way"
  • TechHaus Volantis
  • Aleiodes gaga
  • Gaga (thực vật)
  • Gagadon
  • Kaikaia gaga
  • Sách Wikipedia Sách
  • Thể loại Thể loại
  • Cổng thông tin Chủ đề
  • x
  • t
  • s
Bài hát của Lady Gaga
The Fame
The Fame Monster
Born This Way
Artpop
Cheek to Cheek
Joanne
A Star Is Born
Chromatica
Love for Sale
Top Gun: Maverick
  • "Hold My Hand"
Đĩa đơn hợp tác
Bài hát thu âm khác
Bài hát sáng tác khác
  • Sách Wikipedia Sách
  • Thể loại Thể loại
Giải thưởng của Gaga
  • x
  • t
  • s
Danh sách bán chạy nhất thế giới theo năm của IFPI
Nghệ sĩ của năm
Album của năm
Đĩa đơn của năm
  • x
  • t
  • s
Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim truyền hình ngắn xuất sắc nhất
  • x
  • t
  • s
1934–1940
  • "The Continental"
  • Nhạc: Con Conrad
  • Lời: Herb Magidson (1934)
  • "Lullaby of Broadway"
  • Nhạc: Harry Warren
  • Lời: Al Dubin (1935)
  • "The Way You Look Tonight"
  • Nhạc: Jerome Kern
  • Lời: Dorothy Fields (1936)
  • "Sweet Leilani"
  • Nhạc và lời: Harry Owens (1937)
  • "Thanks for the Memory"
  • Nhạc: Ralph Rainger
  • Lời: Leo Robin (1938)
  • "Over the Rainbow"
  • Nhạc: Harold Arlen
  • Lời: E. Y. Harburg (1939)
  • "When You Wish upon a Star"
  • Nhạc: Leigh Harline
  • Lời: Ned Washington (1940)
1941–1950
  • "The Last Time I Saw Paris"
  • Nhạc: Jerome Kern
  • Lời: Oscar Hammerstein II (1941)
  • "White Christmas"
  • Nhạc và lời: Irving Berlin (1942)
  • "You'll Never Know"
  • Nhạc: Harry Warren
  • Lời: Mack Gordon (1943)
  • "Swinging on a Star"
  • Nhạc: James Van Heusen
  • Lời: Johnny Burke (1944)
  • "It Might as Well Be Spring"
  • Nhạc: Richard Rodgers
  • Lời: Oscar Hammerstein II (1945)
  • "On the Atchison, Topeka and the Santa Fe"
  • Nhạc: Harry Warren
  • Lời: Johnny Mercer (1946)
  • "Zip-a-Dee-Doo-Dah"
  • Nhạc: Allie Wrubel
  • Lời: Ray Gilbert (1947)
  • "Buttons and Bows"
  • Nhạc: Jay Livingston
  • Lời: Ray Evans (1948)
  • "Baby, It's Cold Outside"
  • Nhạc và lời: Frank Loesser (1949)
  • "Mona Lisa"
  • Nhạc và lời: Ray Evans và Jay Livingston (1950)
1951–1960
  • "In the Cool, Cool, Cool of the Evening"
  • Nhạc: Hoagy Carmichael
  • Lời: Johnny Mercer (1951)
  • "High Noon (Do Not Forsake Me, Oh My Darlin')"
  • Nhạc: Dimitri Tiomkin
  • Lời: Ned Washington (1952)
  • "Secret Love"
  • Nhạc: Sammy Fain
  • Lời: Paul Francis Webster (1953)
  • "Three Coins in the Fountain"
  • Nhạc: Jule Styne
  • Lời: Sammy Cahn (1954)
  • "Love Is a Many Splendored Thing"
  • Nhạc: Sammy Fain
  • Lời: Paul Francis Webster (1955)
  • "Que Sera, Sera (Whatever Will Be, Will Be)"
  • Nhạc và lời: Jay Livingston và Ray Evans (1956)
  • "All the Way"
  • Nhạc: James Van Heusen
  • Lời: Sammy Cahn (1957)
  • "Gigi"
  • Nhạc: Frederick Loewe
  • Lời: Alan Jay Lerner (1958)
  • "High Hopes"
  • Nhạc: James Van Heusen
  • Lời: Sammy Cahn (1959)
  • "Never on Sunday"
  • Nhạc và lời: Manos Hatzidakis (1960)
1961–1970
  • "Moon River"
  • Nhạc: Henry Mancini
  • Lời: Johnny Mercer (1961)
  • "Days of Wine and Roses"
  • Nhạc: Henry Mancini
  • Lời: Johnny Mercer (1962)
  • "Call Me Irresponsible"
  • Nhạc: James Van Heusen
  • Lời: Sammy Cahn (1963)
  • "Chim Chim Cher-ee"
  • Nhạc và lời: Richard M. Sherman và Robert B. Sherman (1964)
  • "The Shadow of Your Smile"
  • Nhạc: Johnny Mandel
  • Lời: Paul Francis Webster (1965)
  • "Born Free"
  • Nhạc: John Barry
  • Lời: Don Black (1966)
  • "Talk to the Animals"
  • Nhạc và lời: Leslie Bricusse (1967)
  • "The Windmills of Your Mind"
  • Nhạc: Michel Legrand
  • Lời: Alan Bergman và Marilyn Bergman (1968)
  • "Raindrops Keep Fallin' on My Head"
  • Nhạc: Burt Bacharach
  • Lời: Hal David (1969)
  • "For All We Know"
  • Nhạc: Fred Karlin
  • Lời: Robb Royer và Jimmy Griffin (1970)
1971–1980
  • "Theme from Shaft"
  • Nhạc và lời: Isaac Hayes (1971)
  • "The Morning After"
  • Nhạc và lời: Al Kasha và Joel Hirschhorn (1972)
  • "The Way We Were"
  • Nhạc: Marvin Hamlisch
  • Lời: Alan Bergman và Marilyn Bergman (1973)
  • "We May Never Love Like This Again"
  • Nhạc và lời: Al Kasha và Joel Hirschhorn (1974)
  • "I'm Easy"
  • Nhạc và lời: Keith Carradine (1975)
  • "Evergreen (Love Theme from A Star Is Born)"
  • Nhạc: Barbra Streisand
  • Lời: Paul Williams (1976)
  • "You Light Up My Life"
  • Nhạc và lời: Joseph Brooks (1977)
  • "Last Dance"
  • Nhạc và lời: Paul Jabara (1978)
  • "It Goes Like It Goes"
  • Nhạc: David Shire
  • Lời: Norman Gimbel (1979)
  • "Fame"
  • Nhạc: Michael Gore
  • Lời: Dean Pitchford (1980)
1981–1990
1991–2000
2001–2010
  • "If I Didn't Have You"
  • Nhạc và lời: Randy Newman (2001)
  • "Lose Yourself"
  • Nhạc: Eminem, Jeff Bass và Luis Resto
  • Lời: Eminem (2002)
  • "Into the West"
  • Nhạc và lời: Fran Walsh, Howard Shore và Annie Lennox (2003)
  • "Al otro lado del río"
  • Nhạc và lời: Jorge Drexler (2004)
  • "It's Hard out Here for a Pimp"
  • Nhạc và lời: Juicy J, Frayser Boy và DJ Paul (2005)
  • "I Need to Wake Up"
  • Nhạc và lời: Melissa Etheridge (2006)
  • "Falling Slowly"
  • Nhạc và lời: Glen Hansard và Markéta Irglová (2007)
  • "Jai Ho"
  • Nhạc: A. R. Rahman
  • Lời: Gulzar (2008)
  • "The Weary Kind"
  • Nhạc và lời: Ryan Bingham và T-Bone Burnett (2009)
  • "We Belong Together"
  • Nhạc và lời: Randy Newman (2010)
2011–2020
  • "Man or Muppet"
  • Nhạc và lời: Bret McKenzie (2011)
  • "Skyfall"
  • Nhạc và lời: Adele Adkins và Paul Epworth (2012)
  • "Let It Go"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez và Robert Lopez (2013)
  • "Glory"
  • Nhạc và lời: John Stephens và Lonnie Lynn (2014)
  • "Writing's on the Wall"
  • Nhạc và lời: Jimmy Napes và Sam Smith (2015)
  • "City of Stars"
  • Nhạc: Justin Hurwitz
  • Lời: Benj Pasek & Justin Paul (2016)
  • "Remember Me"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez và Robert Lopez (2017)
  • "Shallow"
  • Nhạc và lời: Lady Gaga, Mark Ronson, Anthony Rossomando và Andrew Wyatt (2018)
  • Danh sách đầy đủ
  • (1934–1940)
  • (1941–1950)
  • (1951–1960)
  • (1961–1970)
  • (1971–1980)
  • (1981–1990)
  • (1991–2000)
  • (2001–2010)
  • (2011–2020)
  • x
  • t
  • s
  • "Man or Muppet"
  • Nhạc và lời: Bret McKenzie (2011)
  • "Skyfall"
  • Nhạc và lời: Adele Adkins và Paul Epworth (2012)
  • "Let It Go"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez và Robert Lopez (2013)
  • "Glory"
  • Nhạc và lời: John Stephens và Lonnie Lynn (2014)
  • "Writing's on the Wall"
  • Nhạc và lời: Jimmy Napes và Sam Smith (2015)
  • "City of Stars"
  • Nhạc: Justin Hurwitz
  • Lời: Benj Pasek & Justin Paul (2016)
  • "Remember Me"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez và Robert Lopez (2017)
  • "Shallow"
  • Nhạc và lời: Lady Gaga, Mark Ronson, Anthony Rossomando và Andrew Wyatt (2018)
  • Danh sách đầy đủ
  • (1934–1940)
  • (1941–1950)
  • (1951–1960)
  • (1961–1970)
  • (1971–1980)
  • (1981–1990)
  • (1991–2000)
  • (2001–2010)
  • (2011–2020)
  • x
  • t
  • s
Thập niên 1960
  • "Town Without Pity" Lời: Ned Washington, Nhạc: Dimitri Tiomkin (1961)
  • "Circus World" Lời: Ned Washington, Nhạc: Dimitri Tiomkin (1964)
  • "Forget Domani" Lời; Norman Newell, Nhạc: Riz Ortolani (1965)
  • "Strangers in the Night" Lời: Charles Singleton, Eddie Snyder, Nhạc: Bert K. (1966)
  • "If Ever I Should Leave You" Lời: Alan Jay Lerner, Nhạc: Frederick Loewe (1967)
  • "The Windmills of Your Mind" Lời: Alan Bergman, Marilyn Bergman, Nhạc: Michel Legrand (1968)
  • "Jean" Nhạc và lời: Rod McKuen (1969)
Thập niên 1970
  • "Whistling Away the Dark" Lời: Johnny Mercer, Nhạc: Henry Mancini (1970)
  • "Life Is What You Make It" Lời: Johnny Mercer, Nhạc: Marvin Hamlisch (1971)
  • "Ben" Lời: Don Black, Nhạc: Walter Scharf (1972)
  • "The Way We Were" Lời: Alan Bergman & Marilyn Bergman, Nhạc: Marvin Hamlisch (1973)
  • "I Feel Love" Lời: Betty Box, Nhạc: Euel Box (1974)
  • "I'm Easy" Nhạc và lời: Keith Carradine (1975)
  • "Evergreen" Lời: Paul Williams, Nhạc: Barbra Streisand (1976)
  • "You Light Up My Life" Nhạc và lời: Joseph Brooks (1977)
  • "Last Dance" Nhạc và lời: Paul Jabara (1978)
  • "The Rose" Nhạc và lời: Amanda McBroom (1979)
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
  • "Things Have Changed" Nhạc và lời: Bob Dylan (2000)
  • "Until..." Nhạc và lời: Sting (2001)
  • "The Hands That Built America" Nhạc và lời Bono, Adam Clayton, The Edge, & Larry Mullen (2002)
  • "Into the West" Nhạc và lời Annie Lennox, Howard Shore, Frances Walsh (2003)
  • "Old Habits Die Hard" Nhạc và lời Mick Jagger, David A. Stewart (2004)
  • "A Love That Will Never Grow Old" Lời: Bernie Taupin, Nhạc: Gustavo Santaolalla (2005)
  • "The Song of the Heart" Nhạc và lời: Prince Rogers Nelson (2006)
  • "Guaranteed" Nhạc và lời: Eddie Vedder (2007)
  • "The Wrestler" Nhạc và lời: Bruce Springsteen (2008)
  • "The Weary Kind" Nhạc và lời: Ryan Bingham, T-Bone Burnett (2009)
Thập niên 2010
  • "You Haven't Seen the Last of Me" Nhạc và lời: Diane Warren (2010)
  • "Masterpiece" Nhạc và lời: Madonna, Julie Frost và Jimmy Harry (2011)
  • "Skyfall" của Adele Adkins và Paul Epworth (2012)
  • "Ordinary Love" của U2 và Danger Mouse (2013)
  • "Glory" của Common và John Legend (2014)
  • "Writing's on the Wall" của Sam Smith và Jimmy Napes (2015)
  • "City of Stars" của Justin Hurwitz, Benj Pasek và Justin Paul (2016)
  • "This Is Me" của Benj Pasek và Justin Paul (2017)
  • "Shallow" của Lady Gaga, Mark Ronson, Anthony Rossomando và Andrew Wyatt (2018)
  • "(I'm Gonna) Love Me Again" của Elton John (2019)
Thập niên 2020
  • Danh sách đầy đủ
  • Thập niên 1960
  • Thập niên 1970
  • Thập niên 1980
  • Thập niên 1990
  • Thập niên 2000
  • Thập niên 2010
  • Thập niên 2020
  • x
  • t
  • s
  • "You Haven't Seen the Last of Me" Nhạc và lời: Diane Warren (2010)
  • "Masterpiece" Nhạc và lời: Madonna, Julie Frost và Jimmy Harry (2011)
  • "Skyfall" của Adele Adkins và Paul Epworth (2012)
  • "Ordinary Love" của U2 và Danger Mouse (2013)
  • "Glory" của Common và John Legend (2014)
  • "Writing's on the Wall" của Sam Smith và Jimmy Napes (2015)
  • "City of Stars" của Justin Hurwitz, Benj Pasek và Justin Paul (2016)
  • "This Is Me" của Benj Pasek và Justin Paul (2017)
  • "Shallow" của Lady Gaga, Mark Ronson, Anthony Rossomando và Andrew Wyatt (2018)
  • "(I'm Gonna) Love Me Again" của Elton John (2019)
  • Danh sách đầy đủ
  • Thập niên 1960
  • Thập niên 1970
  • Thập niên 1980
  • Thập niên 1990
  • Thập niên 2000
  • Thập niên 2010
  • Thập niên 2020
  • x
  • t
  • s
Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất trong năm ở Anh Quốc
1952–1969
1970–1989
1990–2009
2010-2019
2020-nay
  • x
  • t
  • s
Giải Glamour cho Người phụ nữ của năm
  • x
  • t
  • s
1998–2000
  • "When You Believe"
  • Nhạc và lời: Stephen Schwartz (1998)
  • "Music of My Heart"
  • Nhạc và lời: Diane Warren (1999)
  • "My Funny Friend and Me"
  • Nhạc và lời: Sting và David Hartley (2000)
2001–2010
  • "May It Be"
  • Nhạc và lời: Enya, Roma Ryan, Nicky Ryan, Howard Shore (2001)
  • "Lose Yourself"
  • Nhạc và lời: Eminem, Luis Resto, Jeff Bass (2002)
  • "A Mighty Wind"
  • Nhạc và lời: Christopher Guest, Michael McKean, Eugene Levy (2003)
  • "Old Habits Die Hard"
  • Nhạc và lời: Mick Jagger, David Stewart (2004)
  • "Hustle & Flow"
  • Nhạc và lời: Terrence Howard (2005)
  • "Listen"
  • Nhạc và lời: Henry Krieger, Scott Cutler, Anne Preven, Beyoncé Knowles (2006)
  • "Falling Slowly"
  • Nhạc và lời: Glen Hansard, Markéta Irglová (2007)
  • "The Wrestler"
  • Nhạc và lời: Bruce Springsteen (2008)
  • "The Weary Kind"
  • Nhạc và lời: Ryan Bingham and T-Bone Burnett (2009)
  • "If I Rise"
  • Nhạc và lời: A. R. Rahman, Dido, Rollo Armstrong (2010)
2011–2020
  • "Life's a Happy Song"
  • Nhạc và lời: Bret McKenzie (2011)
  • "Skyfall"
  • Nhạc và lời: Adele, Paul Epworth (2012)
  • "Let It Go"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez, Robert Lopez (2013)
  • "Glory"
  • Nhạc và lời: Common & John Legend (2014)
  • "See You Again"
  • Nhạc và lời: Andrew Cedar, DJ Frank E, Wiz Khalifa, Charlie Puth (2015)
  • "City of Stars"
  • Nhạc: Justin Hurwitz; Lời: Benj Pasek và Justin Paul (2016)
  • "Remember Me"
  • Nhạc và lời: Kristen Anderson-Lopez, Robert Lopez (2017)
  • "Shallow"
  • Nhạc và lời: Lady Gaga, Mark Ronson, Anthony Rossomando và Andrew Wyatt (2018)
  • x
  • t
  • s
2010
Lady Gaga — "Bad Romance"
2011
Katy Perry — "Firework"
2012
Rihanna (hợp tác với Calvin Harris) — "We Found Love"
2013
Justin Timberlake — "Mirrors"
2014
Miley Cyrus — "Wrecking Ball"
2015
Taylor Swift (hợp tác với Kendrick Lamar) — "Bad Blood"
2016
Beyoncé — "Formation"
2017
Kendrick Lamar — "Humble"
2018
Camila Cabello (hợp tác với Young Thug) — "Havana"
  • Danh sách đầy đủ
  • (Thập niên 1980)
  • (Thập niên 1990)
  • (Thập niên 2000)
  • (Thập niên 2010)
  • x
  • t
  • s
Thập niên 1980
1984
The Cars — "You Might Think"
1985
Don Henley — "The Boys of Summer"
1986
Dire Straits — "Money for Nothing"
1987
Peter Gabriel — "Sledgehammer"
1988
INXS — "Need You Tonight/Mediate"
1989
Neil Young — "This Note's for You"
Thập niên 1990
1990
Sinéad O'Connor — "Nothing Compares 2 U"
1991
R.E.M. — "Losing My Religion"
1992
Van Halen — "Right Now"
1993
Pearl Jam — "Jeremy"
1994
Aerosmith — "Cryin'"
1995
TLC — "Waterfalls"
1996
The Smashing Pumpkins — "Tonight, Tonight"
1997
Jamiroquai — "Virtual Insanity"
1998
Madonna — "Ray of Light"
1999
Lauryn Hill — "Doo Wop (That Thing)"
Thập niên 2000
2000
Eminem — "The Real Slim Shady"
2001
Christina Aguilera, Lil' Kim, Mýa và P!nk — "Lady Marmalade"
2002
Eminem — "Without Me"
2003
Missy Elliott — "Work It"
2004
OutKast — "Hey Ya!"
2005
Green Day — "Boulevard of Broken Dreams"
2006
Panic! at the Disco — "I Write Sins Not Tragedies"
2007
Rihanna (hợp tác cùng Jay-Z) — "Umbrella"
2008
Britney Spears — "Piece of Me"
2009
Beyoncé — "Single Ladies (Put a Ring on It)"
Thập niên 2010
2010
Lady Gaga — "Bad Romance"
2011
Katy Perry — "Firework"
2012
Rihanna (hợp tác với Calvin Harris) — "We Found Love"
2013
Justin Timberlake — "Mirrors"
2014
Miley Cyrus — "Wrecking Ball"
2015
Taylor Swift (hợp tác với Kendrick Lamar) — "Bad Blood"
2016
Beyoncé — "Formation"
2017
Kendrick Lamar — "Humble"
2018
Camila Cabello (hợp tác với Young Thug) — "Havana"
  • Danh sách đầy đủ
  • (Thập niên 1980)
  • (Thập niên 1990)
  • (Thập niên 2000)
  • (Thập niên 2010)
  • Cổng thông tin Lady Gaga
  • Cổng thông tin Âm nhạc
  • Cổng thông tin Âm nhạc Việt Nam
  • Cổng thông tin Hoa Kỳ
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BIBSYS: 9060029
  • BNC: 000844007
  • BNE: XX5078972
  • BNF: cb157535900 (data)
  • CANTIC: a11042485
  • CiNii: DA17587141
  • GND: 135898838
  • ICCU: Italy
  • ISNI: 0000 0001 2025 4559
  • LCCN: no2008179258
  • LNB: 000156538
  • MBA: 650e7db6-b795-4eb5-a702-5ea2fc46c848
  • NDL: 01204423
  • NKC: xx0099107
  • NLA: 47753387
  • NLI: 001717028
  • NLK: KAC201714300
  • NLP: a0000002489816
  • NSK: 000550508
  • NTA: 322038480
  • PLWABN: 9810616312005606
  • RERO: 02-A016386685
  • SELIBR: 344910
  • SUDOC: 162075545
  • TePapa: 62891
  • Trove: 1479624
  • VIAF: 49555103
  • WorldCat Identities (via VIAF): 49555103
Dữ liệu nhân vật
TÊN Germanotta, Stefani Joanne Angelina
TÊN KHÁC Lady Gaga
TÓM TẮT Pop singer
NGÀY SINH 28 tháng 3 năm 1986
NƠI SINH New York City, New York State
NGÀY MẤT
NƠI MẤT

Bài viết chọn lọc Lady Gaga” là một bài viết chọn lọc của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 22 tháng 11 năm 2023 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.