MTV Unplugged in New York

MTV Unplugged in New York
Album trực tiếp của Nirvana
Phát hành1 tháng 11 năm 1994
Thu âm18 tháng 11 năm 1993
Địa điểmSony Music, thành phố New York
Thể loại
  • Folk rock
  • alternative rock
Thời lượng53:50
Hãng đĩaDGC
Sản xuất
  • Alex Coletti
  • Scott Litt
  • Nirvana
Thứ tự album của Nirvana
In Utero
(1993)
MTV Unplugged in New York
(1994)
Singles
(1995)
Thứ tự video của Nirvana
Classic Albums: Nirvana – Nevermind
(2005)
MTV Unplugged in New York
(2007)
Live at Reading
(2009)
Đĩa đơn từ MTV Unplugged in New York
  1. "All Apologies (quảng bá)"
    Phát hành: 5 tháng 2 năm 1994[1][2][3]
  2. "About a Girl"
    Phát hành: 24 tháng 10 năm 1994
  3. "Polly (quảng bá)"
    Phát hành: 1994
  4. "The Man Who Sold the World (quảng bá)"
    Phát hành: 1995
  5. "Where Did You Sleep Last Night (quảng bá)"
    Phát hành: 1995
  6. "Lake of Fire (quảng bá)"
    Phát hành: 1995

MTV Unplugged in New Yorkalbum trực tiếp của ban nhạc rock người Mỹ Nirvana, được hãng đĩa DGC Records phát hành ngày 1 tháng 11 năm 1994. Album ghi lại màn trình diễn acoustic của ban nhạc cho chương trình truyền hình MTV Unplugged vào ngày 18 tháng 11 năm 1993 tại Sony Music Studios, thành phố New York.

Chương trình được Beth McCarthy đạo diễn và phát sóng trên kênh truyền hình cáp MTV vào ngày 16 tháng 12 năm 1993. Trái với thông lệ của MTV Unplugged, Nirvana hầu như chỉ chơi những bài ít được biết đến và chơi lại các ca khúc của The Vaselines, David Bowie, Lead Belly và Meat Puppets. Không như các buổi MTV Unplugged thuần acoustic trước đó, Nirvana sử dụng bộ khuếch đại và phơ guitar trong buổi diễn của mình. Nghệ sĩ guitar đệm Pat Smear, nghệ sĩ cello Lori Goldston và hai thành viên Meat Puppets tham gia chơi một số ca khúc cùng họ.

MTV Unplugged được ra mắt sau khi kế hoạch phát hành nó trong album tổng hợp trực tiếp Verse Chorus Verse bị hủy. Nó là album đầu tiên Nirvana phát hành sau khi ca sĩ Kurt Cobain qua đời cách đó bảy tháng. Nó xuất hiện trên Billboard 200 ở vị trí đầu bảng và được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) trao chứng nhận Bội Bạch kim lần thứ tám vào năm 2020.[4] Nó đoạt giải Album nhạc alternative xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy năm 1996 – giải Grammy duy nhất của Nirvana – và được đánh giá là một trong những album trực tiếp vĩ đại nhất kể từ đó. Buổi diễn được phát hành dưới dạng DVD năm 2007.

Hoàn cảnh ra đời

MTV Unplugged bắt đầu phát sóng trên MTV vào năm 1989. Nghệ sĩ tham gia sẽ trình bày những ca khúc nổi tiếng nhất của mình bằng nhạc cụ acoustic trong bối cảnh thân tình.[5] Việc thương lượng để Nirvana tham gia chương trình đã diễn ra được một thời gian trước khi thủ lĩnh Nirvana là Kurt Cobain nhận lời lúc đang lưu diễn với Meat Puppets.[6] Nirvana muốn thử gì đó mới lạ so với một chương trình MTV Unplugged thông thường. Theo tay trống Dave Grohl, "Bọn tôi xem những buổi diễn Unplugged khác thì có nhiều buổi diễn không thích lắm, vì đa số các ban nhạc làm như nó là show diễn rock ấy – họ chơi toàn bài hit cứ như ở Madison Square Garden, khác ở chỗ dùng guitar acoustic thôi."[7]

Cả nhóm xem album phát hành năm 1990 The Winding Sheet của Mark Lanegan để tìm cảm hứng. Họ đề ra nhiều ý tưởng như hát lại "The Man Who Sold the World" của David Bowie và mời thành viên nhóm Meat Puppets cùng lên sân khấu.[8] Tuy vậy, viễn cảnh về một buổi diễn hoàn toàn acoustic vẫn làm Cobain lo lắng.[6]

Tập dượt

Nirvana tập dượt trong hai ngày. Những buổi tập rất khó và căng thẳng, nhiều vấn đề nảy sinh khi ban nhạc trình diễn các ca khúc khác nhau. Giữa các buổi tập, Cobain bất đồng với MTV về phần trình diễn. Nhà sản xuất Alex Coletti còn nhớ nhà đài không vui vì Nirvana không chơi nhiều bài nổi tiếng và chọn khách mời là Meat Puppets. Ông nói, "Họ muốn nghe những cái tên 'đúng' – Eddie Vedder hay Tori Amos hay ai đó, Chúa mới biết được."[9]

Trước ngày ghi hình, Cobain đòi bỏ không chơi nữa, nhưng chiều hôm sau anh vẫn tới studio. Lúc đó anh đang gặp hội chứng cai nghiện và bị căng thẳng. Có người nhận xét, "Cậu ấy không giỡn, không cười, không vui đùa gì cả ... ai cũng rất lo cho phần trình diễn của cậu ấy."[6]

Ghi hình

Buổi diễn của Nirvana được ghi lại vào ngày 18 tháng 11 năm 1993 tại Sony Studios, thành phố New York. Cobain đề xuất trang trí sân khấu với hoa ly trắng, nến đen và đèn chùm pha lê. Coletti hỏi, "Ý cậu là giống đám ma à?" Cobain trả lời, "Chính xác. Giống đám ma."[10]

Nghệ sĩ guitar Pat Smear và cello Lori Goldston vốn đang lưu diễn cùng Nirvana cũng tham gia chương trình. Ý tưởng của chương trình vốn là chơi nhạc acoustic, nhưng Cobain vẫn đòi cắm cây guitar acoustic của mình vào bộ khuếch đại âm thanhphơ. Coletti đặt một cái hộp giả trước bộ khuếch đại để ngụy trang nó thành loa kiểm âm trên sân khấu. Coletti nói, "Đó là vật che chở của Kurt. Cậu ta quen nghe tiếng cây guitar này qua [bộ khuếch đại] Fender của mình rồi. Cậu ta muốn những hiệu ứng đó. Nghe 'The Man Who Sold the World' là bạn thấy ngay. Đúng là guitar acoustic đấy, nhưng rõ ràng là qua bộ khuếch đại."[9]

Khác với nhiều nghệ sĩ tham gia chương trình, Nirvana ghi hình toàn bộ buổi diễn chỉ trong một lần.[11] Danh sách ca khúc có 14 bài hát, gồm một bài từ album đầu tay của nhóm là Bleach, bốn bài từ album thứ hai Nevermind, ba bài từ album mới phát hành In Utero và sáu bài hát lại.[10] "All Apologies" trong In Utero vẫn chưa được phát hành thành đĩa đơn, nên ca khúc nổi tiếng duy nhất ban nhạc trình diễn khi ấy là đĩa đơn "Come as You Are" trong Nevermind.[11]

Cris và Curt Kirkwood nhóm Meat Puppets tham gia chơi ba bài của Meat Puppets cùng Nirvana. Buổi diễn hạ màn với phần trình bày ca khúc truyền thống "Where Did You Sleep Last Night" dựa trên bản cải biên của nhạc sĩ blues Lead Belly, người được Cobain gọi là "nghệ sĩ biểu diễn yêu thích" của anh. Biểu diễn xong, Cobain tranh cãi với các nhà sản xuất chương trình vì họ đòi ban nhạc chơi lại bài này. Cobain không chịu vì cảm thấy mình không thể chơi hay hơn được nữa.[12]

Phát hành

Buổi diễn MTV Unplugged của Nirvana được phát sóng lần đầu vào tháng 12 năm 1993[13] với thời lượng 45 phút, lược bớt bài "Something in the Way" và "Oh Me." Sau khi Cobain được phát hiện qua đời vào tháng 4 năm 1994, MTV cho phát lại buổi diễn này nhiều lần.[14] Để đáp ứng nhu cầu nghe nhạc mới của Nirvana và đối phó nạn thu âm lậu, vào tháng 8 năm 1994, DGC thông báo ra mắt album kép Verse Chorus Verse chứa các màn trình diễn trực tiếp của họ, bao gồm toàn bộ buổi MTV Unplugged. Tuy nhiên, việc biên soạn album quá khó khăn về mặt cảm xúc với Novoselic và Grohl, nên dự án này bị hủy một tuần sau thông báo trên.[15] Cả nhóm quyết định chỉ phát hành buổi diễn Unplugged.[16] Scott Litt – nhà sản xuất buổi diễn – trở lại sản xuất đĩa nhạc.[9] Nó được phát hành dưới dạng DVD năm 2007.[17]

Đón nhận

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[18]
Blender[19]
Christgau's Consumer GuideA[20]
Entertainment WeeklyA[21]
The Guardian[22]
NME9/10[23]
Pitchfork9.5/10[24]
Q[25]
Rolling Stone[26]
The Rolling Stone Album Guide[27]

MTV Unplugged in New York được phát hành ngày 1 tháng 11 năm 1994. Nó ra mắt trên vị trí đầu bảng Billboard 200 và bán được 310.500 bản, doanh số tuần đầu cao nhất trong sự nghiệp của Nirvana. Tính đến tháng 3 năm 1995, album đã bán được nhiều hơn In Utero với 6,8 triệu bản.[28]

Album nhận được phản hồi tích cực từ giới chuyên môn.[29] Tom Hibbert của tạp chí Q nhận xét với tư cách một nhóm nhạc acoustic, nhạc Nirvana "gây xúc động hơn cả, đong đầy một vinh quang dang dở."[25] Tác giả Barbara O'Dair của tờ Rolling Stone khen đĩa nhạc "gây hứng khởi và đôi khi xuất sắc" với "những chi tiết tuyệt đẹp nằm tản mát khắp nơi," nhấn mạnh sự ăn ý của ban nhạc ở bài "All Apologies" và phần trình diễn độc tấu "Pennyroyal Tea" của Cobain.[26] Ben Thompson của tờ Mojo cho rằng không như các đĩa Unplugged khác, lối trình bày "vô vị, chung chung" của Unplugged và việc không được coi Nirvana biểu diễn khi nghe đĩa của họ lại là điều tốt, vì trải nghiệm này quá nặng nề sau khi Cobain mất.[30] David Browne của tờ Entertainment Weekly chia sẻ mình thấy do dự khi nghe nó: "Ngoài đem lại cảm giác mất mát chính Cobain, Unplugged còn gợi cảm giác mất mát âm nhạc: sự tinh tế và thân mật của các biên khúc acoustic này gợi ý hướng đi tiếp theo của Nirvana (hay chí ít là Cobain, người rất thất vọng với những hạn chế của ban nhạc)."[21]

MTV Unplugged in New York được bình chọn là album hay thứ tư của năm trong Pazz & Jop, một cuộc bình chọn hàng năm của các nhà phê bình người Mỹ nổi tiếng do tờ The Village Voice xuất bản.[31] Robert Christgau – người quản lý cuộc bình chọn – cũng xếp album ở hạng thứ tư trong danh sách cuối năm của riêng ông,[32] coi nó là minh chứng cho chiều sâu cảm xúc, "sự chân thật" trong vai trò ca sĩ và sự khác biệt của Cobain với những mẫu nghệ sĩ alternative rock nhạy cảm khác như Eddie Vedder và Lou Barlow: "Anh gợi nhớ về giọng ca của John Lennon trong John Lennon/Plastic Ono Band. Và anh làm được điều đó chỉ trong một lần ghi hình."[20]

Hồi cố

Trong một bài phê bình hồi cố của AllMusic, biên tập viên cao cấp Stephen Thomas Erlewine khen MTV Unplugged in New York là "lời thú nhận can đảm" vì cảm thấy Nirvana và Cobain "đã gần khám phá ra một âm thanh và phong cách mới."[18] Jason Mendelsohn của tờ PopMatters cho rằng âm sắc folk rock thân tình khác hẳn với hình tượng của Nirvana và Cobain, còn hãng đĩa biến album này thành "một nước đi kinh doanh tham lợi trắng trợn."[33] Trong quyển The Rolling Stone Album Guide (2004), nhà báo Charles M. Young tán dương nó là "kiệt tác thứ hai" của Nirvana sau Nevermind và cho rằng Cobain đã có thể "cách mạng hóa nhạc dân gian như đã làm với rock" nhờ giọng hát đầy ấn tượng. Ông nhận xét các ca khúc của anh hợp với cả "một ban nhạc ồn ào chơi rầm rầm sau lưng bạn" lẫn "chỉ một cây guitar acoustic."[27] Maeve McDermott của báo USA Today gọi nó là "một album folk rock siêu việt hé lộ kỷ nguyên post-grunge tiếp theo của ban nhạc, nếu thủ lĩnh Kurt Cobain vẫn còn sống để theo đuổi khuynh hướng âm nhạc của họ đến cùng."[34]

Năm 2007, tập 6 chương trình Seven Ages of Rock của BBC gọi màn trình diễn "Where Did You Sleep Last Night" của ban nhạc là khúc cầu hồn siêu thực dành cho Cobain.[35] Một bài báo năm 2013 của nhà phê bình Andrew Wallace Chamings trên báo The Atlantic tán tụng ca khúc là một trong những màn biểu diễn trực tiếp xuất sắc nhất mọi thời đại. Ông viết:[36]

Ở câu cuối, "I would shiver the whole night through," Cobain nhảy lên một quãng tám, làm anh cố rướn đến mức gào lên vỡ giọng. Anh hát từ "shiver" gắt đến nỗi cả ban nhạc dừng chơi, cứ như có đánh lộn nổ ra giữa một đám cưới sitcom. Tiếp theo anh rú từ "whole" rồi làm một điều rất lạ trong khoảng lặng ngắn ngủi sau đó, một điều rất khó tả: anh mở đôi mắt xanh sắc lạnh thình lình đến nỗi ta tưởng như có ai, hay có gì đó khác đang nhìn ra dưới làn tóc tẩy buông rủ, với sự trong trẻo lạ lùng.

Theo Acclaimed Music, MTV Unplugged in New York là đĩa nhạc xếp hạng 309 trên danh sách mọi thời đại của giới phê bình.[37] Năm 2012, nó đứng vị trí 313 trên danh sách "500 album vĩ đại nhất" của Rolling Stone.[38] Rolling Stone cũng đánh giá nó là album hay thứ 95 của thập niên 1990.[39] Độc giả đánh giá nó là album trực tiếp hay thứ tám mọi thời đại.[40] NME xếp MTV Unplugged in New York hạng nhất trên danh sách "50 album trực tiếp vĩ đại nhất."[41] Kerrang liệt kê nó vào danh sách "11 album trực tiếp xuất sắc nhất mọi thời đại."[42] Tháng 7 năm 2014, Guitar World xếp MTV Unplugged in New York ở hạng 30 trên danh sách "Superunknown: 50 album biểu tượng định hình 1994."[43] Tạp chí này cũng xếp nó hạng thứ tư trên danh sách "10 album trực tiếp xuất sắc nhất bạn phải nghe."[44] Tạp chí Far Out cũng xếp nó ở vị trí thứ tư trên danh sách "20 album trực tiếp xuất sắc nhất mọi thời đại."[45] Năm 2020, The Telegraph xếp nó hạng 13 trên danh sách "30 album hòa nhạc trực tiếp xuất sắc nhất mọi thời đại."[46] Cũng trong năm 2020, tạp chí Planet Rock xếp album vào danh sách "100 album trực tiếp vĩ đại nhất." Album cũng xuất hiện trong cuốn sách 1001 album bạn phải nghe trước khi chết.[47]

Trong bài phê bình MTV Unplugged in New York bản DVD ra mắt năm 2007, tờ Los Angeles Times viết nó "xứng đáng được xếp trên giá lịch sử cùng phần ngồi hát thân mật trong chương trình comeback special huy hoàng năm 1968 của Elvis Presley."[17] Tháng 6 năm 2020, cây đàn Martin D-18E 1959 cùng hai chiếc pickup DeArmond Dynasonic và Bartolini 3AV[48] Cobain sử dụng trong buổi Unplugged được Peter Freedman, chủ tịch Røde Microphones, mua với giá 6 triệu đô la Mỹ tại Julien's Auctions, lập kỷ lục cây guitar đắt nhất từng được bán đấu giá.[49]

Danh sách ca khúc

Tất cả các ca khúc được viết bởi Kurt Cobain, trừ khi có ghi chú.

STTNhan đềSáng tácAlbum gốcThời lượng
1."About a Girl" Bleach3:37
2."Come as You Are" Nevermind4:13
3."Jesus Doesn't Want Me for a Sunbeam" (The Vaselines)Eugene Kelly, Frances McKeeDying for It4:37
4."The Man Who Sold the World" (David Bowie)David BowieThe Man Who Sold the World4:20
5."Pennyroyal Tea" In Utero3:40
6."Dumb" In Utero2:52
7."Polly" Nevermind3:16
8."On a Plain" Nevermind3:44
9."Something in the Way" Nevermind4:01
10."Plateau" (Meat Puppets)Curt KirkwoodMeat Puppets II3:37
11."Oh Me"Curt KirkwoodMeat Puppets II3:26
12."Lake of Fire"Curt KirkwoodMeat Puppets II2:56
13."All Apologies" In Utero4:23
14."Where Did You Sleep Last Night"(Nhạc truyền thống; Lead Belly cải biên) 5:08

Ca khúc bổ sung ấn bản kỷ niệm 25 năm[50]

STTNhan đềThời lượng
15."Come As You Are" (Tập dượt)4:42
16."Polly" (Tập dượt)4:03
17."Plateau" (Tập dượt)4:38
18."Pennyroyal Tea" (Tập dượt)4:28
19."The Man Who Sold the World" (Tập dượt)4:39

Thành phần tham gia sản xuất

Nirvana

  • Kurt Cobain – hát chính, guitar electro-acoustic (1–9, 13, 14)
  • Krist Novoselic – bass acoustic (1, 2, 4–9, 13, 14), phong cầm (3), guitar đệm acoustic (10–12)
  • Dave Grohl – trống (1, 2, 4–14), hát đệm, bass acoustic (3)
  • Pat Smear – guitar acoustic (1–4, 6–9, 13, 14)

Nhạc sĩ khác

  • Lori Goldston – cello (3, 4, 6–9, 13, 14)
  • Cris Kirkwood – bass acoustic, hát đệm (10–12)
  • Curt Kirkwood – guitar chính acoustic (10–12)

Sản xuất

  • Alex Coletti – sản xuất
  • Robert Fisher – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế
  • Scott Litt – sản xuất
  • Stephen Marcussen – master nhạc
  • Frank Micelotta – nhiếp ảnh
  • Nirvana – sản xuất

Xếp hạng

Xếp hạng tuần

Xếp hạng (1994) Vị trí
cao nhất
Album Úc (ARIA)[51] 1
Album Áo (Ö3 Austria)[52] 1
Album Bỉ (IFPI Belgium)[53] 1
Album Bỉ (Ultratop Vlaanderen)[54] 3
Album Bỉ (Ultratop Wallonie)[55] 6
Canada Top Albums/CDs (RPM)[56] 1
Album Đan Mạch (Hitlisten)[57] 4
Album Hà Lan (Album Top 100)[58] 2
European Top 100 Albums (Music & Media)[59] 2
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[60] 3
Album Pháp (SNEP)[61][62] 1
Album Đức (Offizielle Top 100)[63] 6
Album Ireland (IFPI Ireland)[64] 1
Album Ý (Musica e Dischi)[65] 8
Album Nhật Bản (Oricon)[66] 20
Album New Zealand (RMNZ)[67] 1
Album Na Uy (VG-lista)[68] 6
Album Bồ Đào Nha (AFP)[64] 1
Album Tây Ban Nha (Productores de Música de España)[69] 1
Album Thụy Điển (Sverigetopplistan)[70] 2
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[71] 3
Album Anh Quốc (OCC)[72] 1
UK Rock & Metal Albums (OCC)[73] 1
Hoa Kỳ Billboard 200[74] 1
Album Zimbabwe[75] 8
Xếp hạng (2010) Vị trí
cao nhất
Album Hy Lạp (IFPI)[76] 47
Xếp hạng (2015) Vị trí
cao nhất
Hoa Kỳ Top Catalog Albums (Billboard)[77] 1
Xếp hạng (2016) Vị trí
cao nhất
Album Ý (FIMI)[78] 61
Xếp hạng (2019) Vị trí
cao nhất
Hoa Kỳ Top Rock Albums (Billboard)[79] 14

Xếp hạng cuối năm

Xếp hạng (1994) Vị trí
Album Úc (ARIA)[80] 7
Album Áo (Ö3 Austria)[81] 23
Album Canada (RPM)[82] 30
Album Hà Lan (MegaCharts)[83] 25
European Top 100 Albums (Music & Media)[84] 4
Album Pháp (SNEP)[85] 5
Album & album tổng hợp Thụy Điển (Sverigetopplistan)[86] 26
Album Anh Quốc (OCC)[87] 39
Xếp hạng (1995) Vị trí
Album Úc (ARIA)[88] 13
Album Áo (Ö3 Austria)[89] 15
Album Bỉ (Ultratop Flanders)[90] 14
Album Bỉ (Ultratop Wallonia)[91] 8
Album Hà Lan (MegaCharts)[92] 24
Euro Top 100 Albums (Music & Media)[93] 4
Album Pháp (SNEP)[94] 7
Album Đức (Offizielle Top 100)[95] 19
Album New Zealand (RMNZ)[96] 17
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[97] 9
Album Anh Quốc (OCC)[98] 73
Billboard 200 Hoa Kỳ[99] 13
Xếp hạng (1996) Vị trí
Album Úc (ARIA)[100] 48
Xếp hạng (2015) Vị trí
Album đĩa than Anh Quốc (OCC)[101] 10
Xếp hạng (2016) Vị trí
Album đĩa than Anh Quốc (OCC)[102] 21
Xếp hạng (2017) Vị trí
Album đĩa than Anh Quốc (OCC)[103] 18
Xếp hạng (2018) Vị trí
Album đĩa than Úc (ARIA)[104] 15
Album đĩa than Anh Quốc (OCC)[105] 25
Xếp hạng (2019) Vị trí
Album đĩa than Úc (ARIA)[106] 15
Album Bỉ (Ultratop Flanders)[107] 123
Album Bỉ (Ultratop Wallonia)[108] 155
Album Bồ Đào Nha (AFP)[109] 96
Xếp hạng (2020) Vị trí
Album đĩa than Úc (ARIA)[110] 21
Album Bỉ (Ultratop Flanders)[111] 88
Album Bỉ (Ultratop Wallonia)[112] 120
Album đĩa than Anh Quốc (OCC)[113] 36
Hoa Kỳ Top Rock Albums (Billboard)[114] 85

Xếp hạng cuối thập niên

Xếp hạng (2010-2019) Vị trí
Album đĩa than Anh Quốc (Official Charts Company)[115] 16

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Argentina (CAPIF)[116] 3× Bạch kim 180.000^
Úc (ARIA)[117] 5× Bạch kim 350.000^
Áo (IFPI Áo)[118] 2× Bạch kim 100.000*
Bỉ (BEA)[119] 3× Bạch kim 150.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[120] Bạch kim 250.000*
Canada (Music Canada)[121] 9× Bạch kim 900.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[122] Vàng 24.373[122]
Pháp (SNEP)[123] 2× Bạch kim 600.000*
Ý (FIMI)[124]
doanh số từ 2009
Bạch kim 50.000double-dagger
Nhật Bản (RIAJ)[125] Bạch kim 200.000^
México (AMPROFON)[126] Vàng 100.000^
Hà Lan (NVPI)[127] Bạch kim 100.000^
New Zealand (RMNZ)[128] Bạch kim 15.000^
Na Uy (IFPI)[129] Bạch kim 50.000*
Ba Lan (ZPAV)[130]
Chứng nhận cho bản gốc
Bạch kim 30.000*
Ba Lan (ZPAV)[131]
Chứng nhận riêng cho bản tái phát hành
Vàng 10.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[132] 2× Bạch kim 200.000^
Thụy Điển (GLF)[133] Bạch kim 100.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[134] 2× Bạch kim 100.000^
Anh Quốc (BPI)[135] 3× Bạch kim 900.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[136] 8× Bạch kim 8.000.000double-dagger
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[137] 2× Bạch kim 2.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+stream.

Bản phát hành DVD

Buổi diễn MTV Unplugged In New York được phát hành dưới dạng DVD ngày 20 tháng 11 năm 2007. Bản DVD chứa toàn bộ buổi ghi hình với âm thanh vòm DTS 5.1, gồm cả hai bài ("Something in the Way" và "Oh Me") bị lược bỏ khi phát sóng. Ngoài ra, nó còn kèm theo bản phát sóng gốc, một chương trình đặc biệt của MTV năm 1999 tên Bare Witness: Nirvana Unplugged về hồi ức của các nhà sản xuất MTV và khán giả, và năm bài hát hoàn chỉnh quay khi tập dượt trước buổi diễn: "Come as You Are", "Polly", "Plateau", "Pennyroyal Tea" và "The Man Who Sold the World".[138]

Xếp hạng

Xếp hạng (2007) Vị trí
cao nhất
BXH DVD Úc (ARIA Charts)[139] 3
BXH DVD Hà Lan (MegaCharts)[140] 8
BXH DVD Na Uy (VG-lista)[141] 1
Hoa Kỳ Top Music Video Sales (Billboard)[142][143] 6

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[144] Bạch kim 15.000^
New Zealand (RMNZ)[145] Bạch kim 5.000^
Anh Quốc (BPI)[146] Bạch kim 50.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[147] 7× Bạch kim 700.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+stream.

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ “Single Reviews”. Billboard: 71. 5 tháng 2 năm 1994. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ “Nirvana - "All Apologies"(PDF). Hitmakers: 5. 4 tháng 2 năm 1994. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2020. Pro CD Includes MTV Unplugged version
  3. ^ “Mainstream Top 40” (PDF). Hitmakers: 17. 4 tháng 2 năm 1994. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ “Search "Nirvana" -RIAA”. riaa.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ “Rock History 101: MTV Unplugged”. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). 6 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2020.
  6. ^ a b c Cross, tr. 302
  7. ^ Siegel, Alan. “Three Feet From God: An Oral History of Nirvana 'Unplugged'”. The Ringer. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2020.
  8. ^ Scaggs, Austin (14 tháng 7 năm 2015). “On an Honor Roll”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  9. ^ a b c di Perna, Alan (20 tháng 2 năm 2008). “Nirvana: Season Finale”. Guitar World. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ a b Cross, tr. 304
  11. ^ a b "Bare Witness: Nirvana Unplugged". Nirvana: MTV Unplugged in New York [DVD]. Geffen Records/MTV Networks, 2007.
  12. ^ Cross, tr. 305
  13. ^ 'Nirvana: Unplugged' Turns 20 -- Go Behind The Scenes Of The Performance That Changed Everything”. mtv.com. 15 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2019.
  14. ^ Weisbard, Eric (13 tháng 11 năm 1994). “Pop Music; A Simple Song That Lives Beyond Time”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  15. ^ Gaar, Gillian G. (14 tháng 2 năm 1997). “Verse Chorus Verse: The Recording History of Nirvana”. Goldmine.
  16. ^ Pareles, Jon (17 tháng 12 năm 1995). “Pop Music; Where Bootleggers Thrive, Labels Follow”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2008.
  17. ^ a b “Nirvana 'Unplugged': intimate and revealing”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). 27 tháng 11 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020.
  18. ^ a b Erlewine, Stephen Thomas. “MTV Unplugged in New York – Nirvana”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  19. ^ Wolk, Douglas (tháng 4 năm 2008). “Back Catalogue: Nirvana”. Blender. New York (68): 88–89.
  20. ^ a b Christgau, Robert (2000). “Nirvana: MTV Unplugged in New York”. Christgau's Consumer Guide: Albums of the '90s. St. Martin's Griffin. tr. 228. ISBN 0-312-24560-2. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  21. ^ a b Browne, David (4 tháng 11 năm 1994). “Uneasy Listening”. Entertainment Weekly. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2008.
  22. ^ Sweeting, Adam (4 tháng 11 năm 1994). “CD of the week: Nirvana”. The Guardian. Luân Đôn.
  23. ^ Harris, John (29 tháng 10 năm 1994). “Nirvana: Unplugged In New York”. NME. Luân Đôn. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  24. ^ Powell, Mike (24 tháng 2 năm 2019). “Nirvana: MTV Unplugged in New York”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  25. ^ a b Hibbert, Tom (tháng 12 năm 1994). “Nirvana: MTV Unplugged in New York”. Q. Luân Đôn (99): 147.
  26. ^ a b O'Dair, Barbara (1 tháng 12 năm 1994). “Nirvana: MTV Unplugged in New York”. Rolling Stone. New York: 120–21. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2002. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
  27. ^ a b Young, Charles M. (2004). “Nirvana”. Trong Brackett, Nathan; Hoard, Christian (biên tập). The New Rolling Stone Album Guide (ấn bản 4). New York: Simon & Schuster. tr. 589–90. ISBN 0-7432-0169-8.
  28. ^ Barber, Nicholas (26 tháng 3 năm 1995). “Number One in heaven:Rock”. The Independent. Luân Đôn. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2008.
  29. ^ McDougall, Chros (2012). Kurt Cobain: Alternative Rock Innovator. ABDO. tr. 81. ISBN 978-1-61478-972-7. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2015.
  30. ^ Thompson, Ben (tháng 12 năm 1994). “Nirvana: MTV Unplugged in New York”. Mojo. Luân Đôn (13).
  31. ^ “The 1994 Pazz & Jop Critics Poll”. The Village Voice. New York. 28 tháng 2 năm 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2015.
  32. ^ Christgau, Robert (28 tháng 2 năm 1995). “Pazz & Jop 1994: Dean's List”. The Village Voice. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  33. ^ Mendelsohn, Jason; Klinger, Eric (4 tháng 4 năm 2014). “Counterbalance: Nirvana's 'MTV Unplugged in New York'”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  34. ^ McDermott, Maeve (18 tháng 11 năm 2018). “As Nirvana's 'MTV Unplugged' turns 25, it's still the best live album of a generation”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2019.
  35. ^ “Seven Ages of Rock”. www.bbc.co.uk. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
  36. ^ Chamings, Andrew Wallace (12 tháng 12 năm 2013). “Nirvana's Tense, Brilliant Unplugged in New York, 20 Years Later”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2017.
  37. ^ “Nirvana”. Acclaimed Music. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2019.
  38. ^ “500 Greatest Albums of All Time: Nirvana, 'Unplugged'”. Rolling Stone. New York. 31 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011.
  39. ^ “100 Best Albums of the Nineties: Nirvana, 'MTV Unplugged in New York'”. Rolling Stone. New York. 27 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
  40. ^ “Readers' Poll: The 10 Best Live Albums of All Time”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  41. ^ “The 50 greatest live albums of all time”. NME. Luân Đôn. 9 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2015.
  42. ^ “The 11 Greatest Live Albums Of All Time”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  43. ^ “Superunknown: 50 Iconic Albums That Defined 1994”. Guitar World. 14 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  44. ^ “10 of the best live albums every rock fan needs to hear | Guitar World”. www.guitarworld.com.
  45. ^ “The 20 greatest live albums of all time”. faroutmagazine.co.uk.
  46. ^ Winwood, Ian (22 tháng 4 năm 2020). “The 30 best live concert albums of all time” – qua www.telegraph.co.uk.
  47. ^ Dimery, Robert biên tập (2010). 1001 Albums You Must Hear Before You Die: Revised and Updated Edition. Universe. ISBN 978-0-7893-2074-2.
  48. ^ “Pickup - Bartolini 3AV Acoustic Guitar Pickup”. www.allparts.uk.com.
  49. ^ “Kurt Cobain's MTV Unplugged guitar sells for $6m at auction”. BBC News Online. 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2020.
  50. ^ “Nirvana - MTV Unplugged In New York”. Discogs.
  51. ^ "Australiancharts.com – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  52. ^ "Austriancharts.at – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  53. ^ “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media: 29. 17 tháng 12 năm 1994. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  54. ^ "Ultratop.be – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 2016.
  55. ^ "Ultratop.be – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  56. ^ "Top RPM Albums: Issue 2681". RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2019.
  57. ^ “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media: 15. 21 tháng 1 năm 1995. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  58. ^ "Dutchcharts.nl – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  59. ^ “European Top 100 Albums” (PDF). Music & Media: 16. 26 tháng 11 năm 1994. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  60. ^ Pennanen, Timo (2003). Sisältää hitin: levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972 Lưu trữ 2016-07-29 tại Wayback Machine. Otava Publishing Company Ltd. ISBN 951-1-21053-X.
  61. ^ “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media: 17. 26 tháng 11 năm 1994. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.[liên kết hỏng]
  62. ^ “InfoDisc: Le Détail des Albums de chaque Artiste”. Infodisc.fr. The user has to select "Nirvana" from the drop down list. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  63. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  64. ^ a b “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media: 13. 3 tháng 12 năm 1994. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  65. ^ “Top 10 Sales in Europe” (PDF). Music & Media: 10. 24 tháng 12 năm 1994. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  66. ^ “MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2009.
  67. ^ "Charts.nz – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  68. ^ "Norwegiancharts.com – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  69. ^ “Billboard 26 Nov 1994”. Billboard. 26 tháng 11 năm 1994. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011.
  70. ^ "Swedishcharts.com – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  71. ^ "Swisscharts.com – Nirvana – MTV Unplugged in New York" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  72. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2019.
  73. ^ "Official Rock & Metal Albums Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2020.
  74. ^ "Nirvana Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  75. ^ Kimberley, Christopher (1998). Albums chart book: Zimbabwe. tr. 46.
  76. ^ “Nirvana - MTV Unplugged in New York (Album)”. Greekcharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2020.
  77. ^ "Nirvana Chart History (Top Catalog Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2016.
  78. ^ “Top album Classifica settimanale WK 16”. FIMI. 15 tháng 4 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2020.
  79. ^ "Nirvana Chart History (Top Rock Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
  80. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1994”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  81. ^ “Jahreshitparade 1994 - Alben” (bằng tiếng Đức). Austrianchart.at. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  82. ^ “RPM Top 100 Albums of 1994”. RPM. 12 tháng 12 năm 1994. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  83. ^ “Jaaroverzichten - Album 1994” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  84. ^ “1994 Year in Review” (PDF). Music & Media. 11 (52): 12. 24 tháng 12 năm 1994. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2018.
  85. ^ “Les Albums (CD) de 1994 par InfoDisc”. InfoDisc (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
  86. ^ “Årslista Album (inkl samlingar), 1994” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  87. ^ “Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 1994r” (bằng tiếng Ba Lan). Z archiwum...rocka. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  88. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1995”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  89. ^ “Jahreshitparade 1995”. Austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2014.
  90. ^ “Jaaroverzichten 1995”. Ultratop (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2014.
  91. ^ “Rapports annueles 1995” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  92. ^ “Jaaroverzichten - Album 1995” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  93. ^ “Year End Sales Charts - European Top 100 Albums 1995” (PDF). Music & Media: 14. 23 tháng 12 năm 1995. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  94. ^ “Classement Albums – année 1995” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  95. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2018.
  96. ^ “Top Selling Albums of 1995”. RIANZ. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2015.
  97. ^ “Swiss Year-end Charts 1995”. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  98. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 1995”. OCC. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2017.
  99. ^ “1995: The Year in Music” (PDF). Billboard: YE-22. 23 tháng 12 năm 1995. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2020.
  100. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 1996”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  101. ^ Official Biggest Vinyl Singles and Albums of 2015 revealed Lưu trữ 2016-01-12 tại Wayback Machine officialcharts.com. Ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  102. ^ The Official Top 40 biggest selling vinyl albums and singles of 2016 Lưu trữ 2017-01-04 tại Wayback Machine officialcharts.com. Ngày 1 tháng 1 năm 2017.
  103. ^ The Official Top 40 biggest selling vinyl albums and singles of 2017 Lưu trữ 2018-01-08 tại Wayback Machine officialcharts.com. Ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  104. ^ “2018 ARIA Vinyl Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  105. ^ “The Official Top 40 biggest vinyl albums and singles of 2018”. officialcharts.com. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2019.
  106. ^ “2019 ARIA Vinyl Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  107. ^ “Jaaroverzichten 2019”. Ultratop. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.
  108. ^ “Rapports Annuels 2019”. Ultratop. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  109. ^ “Top AFP - Audiogest - Top 3000 Singles + EPs Digitais” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
  110. ^ “2020 ARIA Vinyl Albums Chart”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  111. ^ “Jaaroverzichten 2020”. Ultratop. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  112. ^ “Rapports Annuels 2020”. Ultratop. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  113. ^ “The Official Top 40 biggest vinyl albums and singles of 2020”. officialcharts.com. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
  114. ^ “Top Rock Albums – Year-End 2020”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2020.
  115. ^ “Official Top 100 biggest selling vinyl albums of the decade”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  116. ^ “Discos de oro y platino” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
  117. ^ ARIA Report – Week commencing ngày 15 tháng 6 năm 2015 – issue 1320 Lưu trữ 2015-10-16 tại Wayback Machine pandora.nla.gov.au. Truy cập ngày ngày 26 tháng 6 năm 2015.
  118. ^ “Chứng nhận album Áo – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
  119. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2010” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  120. ^ “Chứng nhận album Brasil – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
  121. ^ “Chứng nhận album Canada – Nirvana – Unplugged in New York” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  122. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Nirvana” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  123. ^ “Chứng nhận album Pháp – Nirvana – Unplugged in N.Y.” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  124. ^ “Chứng nhận album Ý – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2018. Chọn "2018" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "MTV Unplugged in New York" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  125. ^ “RIAJ > The Record > April 2000 > Certified Awards (February 2000)” (PDF). Recording Industry Association of Japan (bằng tiếng Nhật). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2013.
  126. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Nirvana ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và MTV unplugged in New York ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  127. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Nirvana – MTV Unplugged In New York” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Enter MTV Unplugged In New York in the "Artiest of titel" box. Select 1995 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  128. ^ “Chứng nhận album New Zealand” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  129. ^ “IFPI Norsk platebransje Trofeer 1993–2011” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2019.
  130. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 1997 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan.
  131. ^ “bestsellery i wyroznienia”. Polish Society of the Phonographic Industry (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  132. ^ Solo Exitos 1959–2002 Ano A Ano: Certificados 1991–1995. Solo Exitos 1959–2002 Ano A Ano. 2005. ISBN 84-8048-639-2. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
  133. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 1987−1998” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  134. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('MTV Unplugged')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  135. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập MTV Unplugged in New York vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  136. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  137. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 1996”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế.
  138. ^ “Nirvana Unplugged In New York DVD - Official Nirvana Website”. Nirvana (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2019.
  139. ^ pandora.nla.gov.au. “ARIA Chart report 26th November 2007” (PDF). Pandora, Australia's Web Archives. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
  140. ^ “Nirvana - Unplugged in New York DVD”. dutchcharts.nl. MegaCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2019.
  141. ^ [1] Nirvana Charts @ lista.vg.no
  142. ^ “Top Music Videos”. Billboard: 59. 12 tháng 1 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
  143. ^ “Nirvana - Chart History - Music Video Sales”. billboard.com. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2019.
  144. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2007 DVDs” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  145. ^ “Latest Gold / Platinum DVDs”. Radioscope (record chart). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
  146. ^ “Chứng nhận video Anh Quốc – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn video trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập MTV Unplugged in New York vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  147. ^ “Chứng nhận video Hoa Kỳ – Nirvana – MTV Unplugged in New York” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.

Thư mục

  • Cross, Charles R. Heavier Than Heaven: A Biography of Kurt Cobain. Hyperion, 2001. ISBN 0-7868-6505-9

Liên kết ngoài

  • MTV Unplugged in New York trên YouTube
  • MTV Unplugged in New York trên Acclaimed Music
  • MTV Unplugged in New York trên Discogs (danh sách phát hành)
  • x
  • t
  • s
Nirvana
  • Aaron Burckhard
  • Dale Crover
  • Dave Foster
  • Chad Channing
  • Jason Everman
  • Dan Peters
Album phòng thu
Album trực tiếp
  • MTV Unplugged in New York
  • From the Muddy Banks of the Wishkah
  • Live at Reading
Album tuyển tập
Box set
  • Singles
  • With the Lights Out
  • Nevermind: The Singles
EP
  • Blew
  • Hormoaning
Đĩa đơn
Videos
  • Live! Tonight! Sold Out!!
  • MTV Unplugged in New York
  • Live at Reading
  • Live at the Paramount
Liên quan
Bài viết
  • Danh sách đĩa nhạc
  • Giải thưởng và đề cử
  • Ca khúc
  • Frances Bean Cobain
  • Vụ tự sát của Kurt Cobain
  • Spencer Elden
Ban nhạc
Sách
  • Come as You Are: The Story of Nirvana
  • Heavier Than Heaven
  • Journals
  • Letters to Kurt
Album
  • Nevermind It's an Interview
  • Smells Like Bleach: A Punk Tribute to Nirvana
Tài liệu
  • 1991: The Year Punk Broke
  • Kurt & Courtney
  • Classic Albums: Nirvana – Nevermind
  • Nirvana – A Classic Album Under Review – In Utero
  • Kurt Cobain: About a Son
  • Hit So Hard
  • Cổng thông tin Âm nhạc
  • Cổng thông tin Mỹ
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • MBRG: fb3770f6-83fb-32b7-85c4-1f522a92287e