Tam quốc chí

Thông tin sáchTác giảTrần ThọQuốc giaTrung QuốcNgôn ngữchữ HánChủ đềLịch sử thời Tam QuốcNgày phát hànhThế kỷ 3
Tam quốc chí
Phồn thể三國志
Giản thể三国志
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữSān Guó Zhì

Tam quốc chí (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: Sanguo Chih; bính âm: Sānguó Zhì), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ năm 189 đến năm 280, do Trần Thọ (陳壽) biên soạn vào thế kỉ thứ 3. Tác phẩm này hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước Ngụy, ThụcNgô của thời đại này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất phổ biến là Tam quốc diễn nghĩa được viết vào thế kỉ 14. Tam quốc chí là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử, cùng với Sử ký, Hán thưHậu Hán thư.

Nguồn gốc

Nhị thập tứ sử
STT Tên sách Tác giả Số quyển
1 Sử ký Tư Mã Thiên 130
2 Hán thư Ban Cố 100
3 Hậu Hán thư Phạm Diệp 120
4 Tam quốc chí Trần Thọ 65
5 Tấn thư Phòng Huyền Linh
(chủ biên)
130
6 Tống thư Thẩm Ước 100
7 Nam Tề thư Tiêu Tử Hiển 59
8 Lương thư Diêu Tư Liêm 56
9 Trần thư Diêu Tư Liêm 36
10 Ngụy thư Ngụy Thâu 114
11 Bắc Tề thư Lý Bách Dược 50
12 Chu thư Lệnh Hồ Đức Phân
(chủ biên)
50
13 Tùy thư Ngụy Trưng
(chủ biên)
85
14 Nam sử Lý Diên Thọ 80
15 Bắc sử Lý Diên Thọ 100
16 Cựu Đường thư Lưu Hú
(chủ biên)
200
17 Tân Đường thư Âu Dương Tu,
Tống Kỳ
225
18 Cựu Ngũ Đại sử Tiết Cư Chính
(chủ biên)
150
19 Tân Ngũ Đại sử Âu Dương Tu
(chủ biên)
74
20 Tống sử Thoát Thoát
(chủ biên)
496
21 Liêu sử Thoát Thoát
(chủ biên)
116
22 Kim sử Thoát Thoát
(chủ biên)
135
23 Nguyên sử Tống Liêm
(chủ biên)
210
24 Minh sử Trương Đình Ngọc
(chủ biên)
332
- Tân Nguyên sử Kha Thiệu Mân
(chủ biên)
257
- Thanh sử cảo Triệu Nhĩ Tốn
(chủ biên)
529

Trần Thọ từng làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong, ông đến Lạc Dương làm quan cho nhà Tây Tấn. Trần Thọ đã căn cứ vào các sử liệu cơ bản như Ngụy thư của Vương Thẩm, Ngụy lược của Ngư Hoạ, Ngô thư của Vi Chiêu... để viết Tam quốc chí[1], thuật lại lịch sử Trung Quốc từ khởi nghĩa Khăn Vàng vào cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất Trung Quốc, tức từ năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (184) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280). Tam quốc chí được chia làm 4 phần gồm 66 quyển: Ngụy quốc chí 30 quyển, Thục quốc chí 15 quyển, Ngô quốc chí 20 quyển, ngoài ra còn có 1 quyển Tự lục (lời tựa) nhưng đến nay đã bị thất truyền[2]. Lúc đầu ba tác phẩm Ngụy chí, Thục chíNgô chí tồn tại riêng rẽ, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (1003) hợp nhất đổi tên thành Tam quốc chí.

Lập trường chính trị

Trần Thọ là quan nhà Tấn, do đó phải lấy triều đại đã nhường ngôi cho Tấn là Tào Ngụy làm chính thống.

  1. Ngụy chí xếp các Hoàng đế nhà Ngụy vào bản kỷ. Tào Tháo tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi Hoàng đế nhưng cũng được xếp vào bản kỷ. Có 4 quyển bản kỷ là Vũ Đế kỷ (Tào Tháo), Văn Đế kỷ (Tào Phi), Minh Đế kỷ (Tào Duệ) và Tam Thiếu Đế kỷ (Tào Phương, Tào MaoTào Hoán). Các văn thư nói về việc các vua Ngụy xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều không chép (ngoại trừ chiếu nhường ngôi của Hán Hiến Đế - Hán Hiến Đế thiện nhượng sách văn, các văn thư khác chỉ do Bùi Tùng Chi chú thích).
  2. Thục chí xếp Lưu Bị vào liệt truyện tức Tiên chủ truyện (mặc dù Lưu Bị xưng đế), không gọi trực tiếp tên húy, khi chết dùng chữ tồ (殂) ngang địa vị với chữ băng (崩)[3]. Các văn thư nói về việc Lưu Bị xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều chép đầy đủ (có thể do tình lưu luyến với cố quốc). Hoàng đế thứ hai nhà Thục HánLưu Thiện được xếp vào Hậu chủ truyện.
  3. Ngô chí trong nguyên bản gọi thẳng tên húy các vua Đông Ngô như Tôn Quyền truyện, Tôn Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện; cách gọi hiện nay Ngô chủ truyện, Tam tự chủ truyện là do người đời sau sửa lại. Về việc Tôn Quyền tuyên bố xưng đế, trong phần Ngô chủ truyện có chép câu "Nam giao tức Hoàng đế vị" (lên ngôi Hoàng đế ở đàn Nam giao), còn văn thư đăng đàn tế cáo trời đất thì không chép, chỉ có trong phần chú thích của Bùi Tùng Chi.

Đồng thời để tôn trọng sự thống trị của nhà Tấn, Tam quốc chí không viết liệt truyện về các nhân vật Tư Mã Ý, Tư Mã SưTư Mã Chiêu (do được Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm truy tôn là Tấn Tuyên Đế, Tấn Cảnh Đế, Tấn Văn Đế)[4]. Ngoài ra, tác giả cũng lược bỏ không viết liệt truyện về nhân vật Khổng Dung.

Bùi Tùng Chi chú thích

Vào thời Đông Hán, sử học tiếp nhận ảnh hưởng từ trào lưu đơn giản hóa của kinh học nên xuất hiện trào lưu giản lược hóa các tài liệu lịch sử. Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện Tam quốc chí của Trần Thọ với nội dung giản lược về thời đại Tam quốc. Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu về thời Tam quốc xuất hiện, Tống Văn Đế thời Nam-Bắc triều thấy nội dung của Tam quốc chí quá sơ lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi chú thích[5]. Bùi Tùng Chi đã tập hợp các sử liệu để bổ sung các phần mà Tam quốc chí không chép hoặc chép thiếu bằng 6 phương pháp:

  1. Dẫn lời bàn luận của nhiều tác gia khác nhau để phân định phải trái.
  2. Tham khảo ý kiến của nhiều tác gia khác nhau để xét những điểm khác biệt, ngụy tạo.
  3. Sự việc trong các truyện đều kể rõ mọi đầu đuôi, uẩn khúc.
  4. Bổ sung các sự việc còn thiếu cho các truyện.
  5. Kể rõ cuộc đời của các nhân vật trong các truyện.
  6. Phụ thêm các nhân vật còn thiếu cho các truyện[6].

Các tài liệu chủ yếu mà Bùi Tùng Chi sử dụng để chú giải Tam quốc chí có thể kể đến là:

  • Dị đồng tạp ký của Tôn Thịnh, người thời Đông Tấn, nội dung hỗn tạp. Có ý kiến cho rằng Bùi Tùng Chi chủ yếu dựa vào tác phẩm này để biên soạn Tam quốc chí chú. Nhiều bình luận của Tôn Thịnh cũng được Bùi Tùng Chi dẫn lại.
  • Anh hùng ký (hay còn gọi là Hán mạt anh hùng ký) của Vương Xán, nội dung nói về các anh hùng cuối thời Đông Hán.
  • Ích bộ kỳ cựu truyện của Trần Thọ, ghi chép về các nhân vật ở Ích Châu.
  • Hoa Dương quốc chí của Thường Cừ, ghi chép lịch sử Ba Thục từ thời Hán đến thời Tấn cùng chuyện Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch.
  • Hậu Hán kỷ của Viên Hoành, người thời Tây Tấn. Tác phẩm này hiện nay vẫn còn.
  • Hán hậu thư của Hoa Kiệu. Hoa Kiệu là con cháu của Hoa Hâm. Nội dung ghi chép lịch sử thời Đông Hán cùng chế độ hoàng hậu đương thời.
  • Hán Tấn Xuân Thu của Tập Tạc Xỉ, người Đông Tấn. Nội dung nói về vấn đề chính thống của Thục Hán, có ảnh hưởng sâu rộng về sau.
  • Ngụy thị Xuân Thu của Tôn Thịnh, ghi chép lịch sử nước Ngụy.
  • Ngụy thư của Vương Thẩm, Tuân Ỷ, Nguyễn Tịch, hoàn thành vào cuối thời Tào Ngụy.
  • Ngụy đô phú của Tả Tư, nằm trong tác phẩm Tam đô phú nói về kinh đô ba nước Ngụy, Thục, Ngô.
  • Ngụy Vũ cố sự, khuyết danh, nội dung nói về Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo).
  • Ngụy mạt truyện, khuyết danh, ghi chép các sự kiện cuối thời Ngụy.
  • Ngụy lược của Ngư Hoạn, ghi chép lịch sử nước Ngụy, trong đó có nói về các dân tộc khác ở biên giới nước Ngụy. Phần Điển lược cũng ghi chép về các nước bên ngoài Ngụy, là tác phẩm đầu tiên của Trung Quốc đề cập đến Đế quốc La Mã (mà họ gọi là nước Đại Tần).
  • Hiến Đế ký, Tùy chí cho là của Lưu Phương, có ý kiến cho là của Lưu Ngải. Lưu Ngải là người thời Đông Hán. Nội dung ghi chép về Hán Hiến Đế, nhưng một số tình tiết về vua Hiến Đế không được ghi chép đầy đủ.
  • Hiến Đế truyện, khuyết danh. Tác phẩm này bổ sung cho Hiến Đế ký, có chép việc Hán Hiến Đế xuống chiếu nhường ngôi cho Tào Phi, Tào Phi nghe lời các quan văn võ cự tuyệt nhiều lần rồi mới nhận.
  • Hiến Đế Xuân Thu của Viên Vĩ.
  • Giang Biểu truyện của Ngu Phổ, người thời Đông Tấn. Nội dung nói về các nhân sĩ ở Giang Nam, tuy nhiên chủ yếu ca ngợi các nhân vật ở Giang Đông mà chê bai các nhân sĩ ở Thục, Ngụy, so với các tác phẩm khác có nhiều điểm mâu thuẫn, không đáng tin cậy. Nhiều sử gia Trung Quốc nghi ngờ tác phẩm này.
  • Ngô thư của Vi Chiêu, người Đông Ngô. Đây là tài liệu cơ bản để Trần Thọ biên soạn phần Ngô thư trong Tam quốc chí.
  • Hậu Hán thư của Tạ Thừa. Tạ Thừa là em của phu nhân Tôn Quyền Tạ thị. Nội dung ghi chép lịch sử thời Đông Hán.
  • Sơn Dương công tái ký của Nhạc Tư, ghi chép về Hán Hiến Đế (Tào Phi phế Hán Hiến Đế làm Sơn Dương công).
  • Tương Dương ký của Tập Tạc Xỉ. Nội dung ghi chép các nhân vật ở Tương Dương (nay thuộc Hồ Bắc) cùng chuyện Trương Đễ dự đoán được việc Ngụy tiêu diệt Thục Hán và họ Tư Mã soán Ngụy thành công.
  • Gia Cát Lượng tập (còn gọi là Gia Cát thị tập) của Trần Thọ, nội dung ghi chép về Gia Cát Lượng.
  • Thục ký của Vương Ẩn, người Đông Tấn. Nội dung nói về lịch sử Thục Hán.
  • Tục Hán thư của Tư Mã Bưu. Tư Mã Bưu là con cháu Tư Mã Tiến (Tiến là em Tư Mã Ý). Nội dung ghi chép lịch sử Đông Hán, thiên văn, lễ nhạc, là phụ lục của bộ chính sử Hậu Hán thư.
  • Tấn kỷ (còn gọi là Tấn ký) của Can Bảo, người Đông Tấn. Chủ yếu ghi chép lịch sử Tây Tấn.
  • Tấn thư của Vương Ẩn (không nhầm với Tấn thư của Phòng Huyền Linh), do Vương Ẩn và cha là Vương Thuyên biên soạn. Vương Ẩn giữ chức trước tác lang thời Đông Tấn. Ngu Dự lấy cắp nguyên cảo của Vương Ẩn đi sao chép khiến Vương Ẩn bị miễn chức. Vương Ẩn theo Dữu Lượng lấy được lời cung, rồi hoàn thành Tấn thư, nội dung ghi chép lịch sử Tây Tấn.
  • Tấn thư của Ngu Dự, người thời Đông Tấn. Nhiều ý kiến cho rằng ông lấy cắp tác phẩm của Vương Ẩn làm của mình.
  • Sưu thần ký của Can Bảo, là tiểu thuyết ghi chép các truyện quái dị, nội dung có chép việc Tôn Sách giận chém Vu Cát rồi uất lên mà chết. Tác phẩm này hiện nay vẫn còn, chủ yếu do người đời sau ghi lại.
  • Tào Man truyện, tác giả người Đông Ngô nhưng không rõ tên. Nội dung ghi chép về Tào Tháo, là sử liệu quan trọng nói về hình tượng Tào Tháo.
  • Mặc ký của Trương Nghiễm, người Đông Ngô. Nội dung đánh giá cao Gia Cát Lượng.
  • Linh Lăng tiên hiền truyện, khuyết danh, ghi chép về các nhân vật ở Linh Lăng (nay là huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam). Có chép sự tích Lưu Ba khinh rẻ Trương Phi.

Các tài liệu khác được Bùi Tùng Chi sử dụng để chú thích Tam quốc chí bao gồm:

  • Cửu châu Xuân Thu của Tư Mã Bưu, chia quyển theo tên châu, ghi chép lịch sử cuối thời Đông Hán
  • Cửu châu ký của Tuân Xước, chia quyển theo tên châu
  • Tam Phụ quyết lục của Triệu Kỳ, ghi chép các nhân vật vùng Tam Phụ (nay là khu vực Quan Trung thuộc tỉnh Thiểm Tây)
  • Tam triều lục, khuyết danh
  • Tam quốc bình của Từ Chúng, bình luận các sự kiện lịch sử thời Tam quốc
  • Tam thương của Quách Phác
  • Sơn Đào khải sự, khuyết danh, ghi chép về Sơn Đào
  • Thái Khang địa ký của sử quan thời Tây Tấn, được biên soạn vào năm Thái Khang thứ 3
  • Văn sĩ truyện của Trương Ẩn (có thuyết nói của Trương Hành hoặc Trương Chất), ghi chép truyện các nhân vật
  • Văn chương chí của Nghiệt Ngu
  • Văn chương tự lục của Tuân Úc
  • Khổng thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Khổng Nghệ
  • Khổng Dung tập, thu thập các tác phẩm của Khổng Dung
  • Vương thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Vương Hùng
  • Vương Lãng gia truyện, ghi chép về Vương Lãng
  • Vương Lãng tập, thu thập các tác phẩm của Vương Lãng
  • Vương Bật truyện của Hà Thiệu, ghi chép về Vương Bật
  • Thế ngữ, còn có tên là Ngụy Tấn thế ngữ của Quách Ban, ghi chép về tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống sinh hoạt của các văn nhân thời Ngụy, Tấn
  • Tứ thể thư thế của Vệ Hằng
  • Giao Quảng ký của Vương Ẩn, ghi chép địa lý Giao Châu và Quảng Châu
  • Giao Quảng nhị châu Xuân Thu của Vương Phạm, ghi chép lịch sử Giao Châu và Quảng Châu
  • Tiên hiền hành trạng, khuyết danh
  • Nhữ Nam tiên hiền truyện của Chu Nhiếp, ghi chép các nhân vật ở quận Nhữ Nam
  • Nhâm Hà biệt truyện, ghi chép về Nhâm Hà
  • Liệt thư, khuyết danh
  • Liệt dị truyện, có thuyết cho là của Tào Phi, ghi chép các chuyện quái dị thời cổ
  • Quyết nghi yếu chú của Nghiệt Ngu
  • Bách quan chí, khuyết danh, nghi là phần"chí"của bộ sử nào đó
  • Bách quan danh, khuyết danh, nội dung ghi chép các quan chức
  • Hàm Hy nguyên niên bách quan danh, khuyết danh, ghi chép các quan chức trong năm Hàm Hy thứ 1 (264)
  • Tấn bách quan danh, ghi chép quan chế thời Tấn
  • Tấn bách quan biểu, ghi chép quan chế thời Tấn
  • Vũ Đế bách quan danh, ghi chép quan chế thời Tấn Vũ Đế
  • Bách nhất thi của Ứng Cừ
  • Ngô lịch của Hồ Xung
  • Ngô lục của Trương Bột
  • Ngô kỷ của Hoàn Tế
  • Ngô Chất biệt truyện, ghi chép về Ngô Chất
  • Tự truyện của Tư Mã Bưu
  • Nguyễn thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Nguyễn Vũ
  • Chí lâm của Hoàn Tế
  • Đỗ thị tân thư, khuyết danh
  • Tân Hiến Anh truyện của Hạ Hầu Trạm, ghi chép về Tân Hiến Anh
  • Điển lược của Ngư Hoạn. Có ý kiến cho rằng nội dung của tác phẩm này lấy từ một bộ phận của tác phẩm Ngụy lược
  • Điển luận của Tào Phi, là tác phẩm nổi tiếng trong lịch sử phê bình văn học Trung Quốc
  • Bỉnh Nguyên biệt truyện, ghi chép về Bỉnh Nguyên
  • Minh Đường luận của Sái Ung
  • Bão Phác Tử của Cát Hồng, là kinh điển của Đạo giáo. Ngoại thiên chủ yếu tự thuật cuộc đời và những lời nói của Cát Hồng, nội thiên nói về tư tưởng Đạo gia và phương pháp tu luyện đạo của Cát Hồng
  • Đông A Vương bạn đạo luận, khuyết danh
  • Duyện châu ký của Tuân Xước, tên một thiên trong Cửu châu ký
  • Phong tục thông nghĩa của Ứng Thiệu, chủ yếu khảo chứng chế độ, phong tục qua các triều đại, bài bác nhiều phong tục mê tín trong dân gian thời Hán
  • Hồ thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Hồ Chất
  • Diêu Tín tập, thu thập các tác phẩm của Diêu Tín
  • Tấn thư của Can Bảo, không nhầm với Tấn kỷ
  • Tấn chư công tán của Phó Sướng, ghi chép về các quan lại thời Ngụy, Tấn
  • Tấn Dương Thu của Tôn Thịnh, ghi chép đến thời Tấn Ai Đế
  • Tấn Thái Thủy khởi cư chú của sử quan thời Tây Tấn, ghi chép các sự kiện lớn trong niên hiệu Thái Thủy thời Tấn Vũ Đế
  • Tấn Huệ Đế khởi cư chú của sử quan thời Tây Tấn, ghi chép các sự kiện lớn thời Tấn Huệ Đế
  • Ích châu kỳ cựu truyện, khuyết danh
  • Ích châu kỳ cựu tạp ký, khuyết danh, là phụ lục của Ích bộ kỳ cựu truyện
  • Cao Quý Hương công tập, thu thập các tác phẩm của Tào Mao
  • Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật, ghi chép về các nhân sĩ có khí tiết thanh cao từ thời Tam đại đến Tào Ngụy
  • Liệt nữ truyện của Hoàng Phủ Mật, ghi chép về các liệt nữ
  • Tuân thị gia truyện, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Tuân Úc, Tuân Du
  • Tuân Úc biệt truyện, ghi chép về Tuân Úc thời Tam Quốc
  • Tuân Xán truyện của Hà Thiệu, ghi chép về Tuân Xán
  • Tuân Úc biệt truyện ghi chép về Tuân Úc thời Tây Tấn
  • Tuân Úc bi văn của Phan Úc, nói về Tuân Úc thời Tây Tấn
  • Tuân Xước bình của Tuân Xước
  • Viên thị thế kỷ, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Viên Hoán
  • Viên Tử của Viên Chuẩn
  • Tôn thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Tôn Tư
  • Tôn Tư biệt truyện, ghi chép về Tôn Tư
  • Tôn Huệ biệt truyện, ghi chép về Tôn Huệ
  • Mã tiên sinh tự của Phó Huyền
  • Thư lâm của Ứng Cừ
  • Thần tiên truyện của Cát Hồng

  • Trần Lưu kỳ cựu truyện của Tô Lâm, ghi chép về các nhân vật ở quận Trần Lưu
  • Trần thị phả, khuyết danh, có liên quan với gia tộc Trần Thái
  • Trần Tư vương tập, thu thập các tác phẩm của Tào Thực
  • Tào công tập, thu thập các tác phẩm của Tào Tháo
  • Tào Chí biệt truyện, ghi chép về Tào Chí
  • Dữu thị phả, có liên quan với gia tộc Dữu Nghi
  • Quách thị phả, có liên quan với gia tộc Quách Hoài
  • Quách Lâm Tông truyện, ghi chép về Quách Thái
  • Thôi thị phả, có liên quan với gia tộc Thôi Liệt
  • Lục thị thế tụng, có liên quan với gia tộc Lục Tốn
  • Lục thị từ đường tượng tán, có liên quan với gia tộc Lục Tốn
  • Lục Tốn minh của Lục Cơ
  • Lục Chi minh của Hạ Hầu Trạm, ghi chép về Lục Chi
  • Khải mông chú của Cố Khải Chi
  • Thông ngữ của Ân Cơ
  • Dị đồng bình của Tôn Thịnh, nằm trong Dị đồng tạp ký
  • Dị vật chí của Dương Phu
  • Dị lâm của Lục Thị
  • Hoa Đà biệt truyện, ghi chép về Hoa Đà
  • Bác vật chí của Trương Hoa, ghi chép về thần thoại, lịch sử thời cổ, khoa học tự nhiên và những chuyện vụn vặt khác
  • Bác vật ký, khuyết danh
  • Kê thị phả, có liên quan với gia tộc Kê Khang
  • Kê Khang truyện, ghi chép về Kê Khang
  • Kê Khang tập, thu thập các tác phẩm của Kê Khang
  • Trình Hiểu biệt truyện, ghi chép về Trình Hiểu
  • Phí Y biệt truyện, ghi chép về Phí Y
  • Phó Tử, khuyết danh
  • Phó Hàm tập, thu thập các tác phẩm của Phó Hàm
  • Trương Siêu tập, thu thập các tác phẩm của Trương Siêu
  • Dật sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật
  • Thục bản kỷ, khuyết danh, ghi chép lịch sử Thục Hán thời Lưu Bị
  • Thục thế phả của Tôn Thịnh
  • Thục đô phú của Tả Tư
  • Sở quốc tiên hiền truyện, khuyết danh, ghi chép về các nhân vật ở Kinh châu
  • Cối Kê điển lục, khuyết danh, ghi chép về các nhân vật ở quận Cối Kê
  • Cối Kê Thiệu thị gia truyện, ghi chép về gia tộc Thiệu Trù
  • Ngu Phiên biệt truyện, ghi chép về Ngu Phiên
  • Dương Đô phú chú của Dữu Xiển
  • Vạn cơ luận của Tưởng Tế
  • Hán kỷ của Trương Phan, nay đã thất truyền
  • Hán Ngụy Xuân Thu của Khổng Diễn
  • Hán mạt danh sĩ lục, khuyết danh
  • Quản Lộ biệt truyện, ghi chép về Quản Lộ
  • Triệu Vân biệt truyện, ghi chép về Triệu Vân
  • Bùi thị gia kỷ của Phó Sướng
  • Trịnh Huyền biệt truyện, ghi chép về Trịnh Huyền
  • Trịnh Huyền truyện, ghi chép về Trịnh Huyền
  • Phan Ni biệt truyện, ghi chép về Phan Ni
  • Phan Nhạc biệt truyện, ghi chép về Phan Nhạc
  • Phan Nhạc tập, thu thập các tác phẩm của Phan Nhạc
  • Lưu thị phả, có liên quan với gia tộc Lưu Dị
  • Lưu Dị biệt truyện, ghi chép về Lưu Dị
  • Ký châu ký của Tuân Xước, tên một thiên trong Cửu châu ký
  • Chiến lược của Tư Mã Bưu
  • Ngu Kham biệt truyện, ghi chép về Ngu Kham
  • Gia Cát thị phả, có liên quan với gia tộc Gia Cát Lượng
  • Gia Cát Khác biệt truyện, ghi chép về Gia Cát Khác
  • Cơ Vân biệt truyện, ghi chép về Lục Cơ, Lục Vân
  • Bao thưởng lệnh của Tào Tháo, nằm trong Tào công tập
  • Chung Hội mẫu truyện của Chung Hội, ghi chép về mẹ của Chung Hội là Trương thị
  • Ngụy kỷ của Ân Đạm
  • Ngụy danh thần tấu, được biên soạn trong niên hiệu Chính Thủy thời Ngụy
  • Ngụy giao tự tấu, khuyết danh
  • Ngụy thế tịch của Tôn Thịnh
  • Ngụy thế phả, khuyết danh
  • Tạp ký của Tôn Thịnh, nằm trong Dị đồng tạp ký
  • Lễ luận, khuyết danh
  • Lư Giang Hà thị gia truyện, khuyết danh
  • Hiến Đế khởi cư chú của sử quan nhà Đông Hán, ghi chép các sự kiện lớn thời Hán Hiến Đế
  • Phả tự của Hoa Kiệu
  • Cố Đàm truyện, khuyết danh, ghi chép về Cố Đàm
  • Linh Đế kỷ của Lưu Ngải, ghi chép về Hán Linh Đế
  • Đế vương thế kỷ của Hoàng Phủ Mật
  • Thiện Tấn văn, khuyết danh, là văn thư nói về việc nhà Ngụy nhường ngôi cho nhà Tấn
  • Vô Khâu Kiệm chí ký, ghi chép về Vô Khâu Kiệm
  • Gia truyện của Tào Tháo, ghi chép về gia tộc Tào Tháo
  • Bình Nguyên Nễ Hành truyện, ghi chép về Nễ Hành
  • Phương ngôn chú của Dương Hùng, Quách Phác chú thích
  • Thần dị kinh của Đông Phương Sóc
  • Biện vong luận của Lục Cơ, bàn luận về sự diệt vong của Đông Ngô
  • Biện đạo luận của Tào Thực, nằm trong Trần Tư vương tập
  • Tòng quân thi của Vương Xán
  • Đại mộ phú của Lục Cơ
  • Gia giới của Đỗ Thứ, ghi chép về Trương Các
  • Gia giới của Vương Sưởng
  • Thất lược của Lưu Hướng
  • Thánh chúa đắc hiền thần tụng của Vương Bao
  • Thuyết uyển của Lưu Hướng
  • Đầu trách tử vũ của Trương Mẫn
  • Tân luận của Hoàn Đàm
  • Tân tự của Lưu Hướng
  • Việt tuyệt thư, ghi chép về nước Việt thời Xuân Thu và Việt vương Câu Tiễn
  • Trọng Trường Thống mạo ngôn biểu của Mậu Tập
  • Lập giao nghị của Tưởng Tế
  • Phụ thần tán của Dương Hý
  • Nhạc Quảng truyện của Tạ Côn
  • Hán quan nghi của Ứng Thiệu

Theo thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải Tam quốc chí là khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam quốc chí. Mã Niệm Tổ trong tác phẩm Thủy kinh chú đẳng bát chủng cổ tịch dẫn dụng thư mục vị biên cho rằng số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng là 203 loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam quốc chí tại Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có 320799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là "bất hủ". Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống) khi biên soạn Tư trị thông giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích Bích.

Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú.

Các tác phẩm hậu thế bổ sung

Tam quốc chí tập giải

Lư Bật (1876 - 1967) đã tập hợp các phần chú thích, hiệu đính và khảo chứng Tam quốc chí của nhiều học giả ở các thời đại khác nhau, biên soạn thành Tam quốc chí tập giải.

Bổ sung phần chí

  • Diêu Chấn Tông, Tam quốc nghệ văn chí; Hầu Khang, Bổ Tam quốc nghệ văn chí
  • Hồng Tự Tôn, Tam quốc chức quan biểu
  • Hồng Lượng Cát, Tam quốc cương vực chí, Bổ Tam quốc cương vực chí bổ chú. Về sau có Ngô Tăng Cẩn, Tam quốc quận huyện biểu phụ khảo chứng; Dương Thủ Kính, Tam quốc quận huyện biểu bổ chính; Kim Triệu Phong, Hiệu bổ Tam quốc cương vực chí.
  • Vương Hân Phu, Bổ Tam quốc bình chí
  • Đào Nguyên Trân, Tam quốc thực hóa chí

Bổ sung phần biểu

  • Tạ Chung Anh, Tam quốc cương vực biểu, Tam quốc cương vực biểu nghi
  • Chu Gia Du, Tam quốc kỷ niên biểu
  • Tạ Chung Anh, Tam quốc đại sự biểu; Trương Thủ Thường, Tam quốc đại sự biểu bổ chính
  • Vạn Tư Đồng trong Lịch đại sự biểuTam quốc đại sự niên biểu, Tam quốc Hán quý phương trấn niên biểu, Ngụy tướng tương đại thần niên biểu, Tam quốc chư vương thế biểu, Ngụy quốc tướng tương đại thần niên biểu, Ngụy tướng tương đại thần niên biểu, Ngụy phương trấn niên biểu, Hán tướng tương đại thần niên biểu, Ngô tướng tương đại thần niên biểu.
  • Hoàng Đại Hoa, Tam quốc chí tam công tể phụ niên biểu
  • Chu Minh Thái, Tam quốc chí thế hệ biểu; Đào Nguyên Trân, Tam quốc chí thế hệ biểu bổ di phụ đính ngụy

Thể loại và cấu trúc tác phẩm

Tam quốc chí tuy gọi là "chí" nhưng thực chất chỉ có bản kỷ và liệt truyện chứ không chép gì về địa lý, kinh tếchế độ chính trị.

Toàn bộ tác phẩm gồm 66 quyển như đã nói ở trên, cụ thể gồm có:

Ngụy chí[7]

Quyển Tựa đề Nội dung
1 Vũ Đế kỷ Tào Tháo
2 Văn Đế kỷ Tào Phi
3 Minh Đế kỷ Tào Duệ
4 Tam Thiếu Đế kỷ Tào Phương, Tào Mao, Tào Hoán
5 Hậu phi truyện Vũ Tuyên Biện hoàng hậu, Văn Chiêu Chân hoàng hậu, Văn Đức Quách hoàng hậu, Minh Điệu Mao hoàng hậu, Minh Nguyên Quách hoàng hậu
6 Đổng nhị Viên Lưu truyện Đổng Trác (phụ: Lý Quyết, Quách Dĩ), Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu Biểu
7 Lã Bố Tang Hồng truyện Lã Bố, Trương Mạc, Trần Đăng, Tang Hồng
8 Nhị Công Tôn Đào tứ Trương truyện Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Trương Dương, Công Tôn Độ, Trương Yên, Trương Tú, Trương Lỗ
9 Chư Hạ Hầu Tào truyện Hạ Hầu Đôn (phụ: Hàn Hạo), Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân (phụ: Tào Thuần), Tào Hồng, Tào Hưu, Tào Chân (phụ: Tào Sảng, Hà Yến), Hạ Hầu Thượng, Hạ Hầu Huyền
10 Tuân Úc Tuân Du Giả Hủ truyện Tuân Úc, Tuân Du, Giả Hủ
11 Viên Trương Lương Quốc Điền Vương Bỉnh Quản truyện Viên Hoán, Trương Phạm, Trương Thừa, Lương Mậu, Quốc Uyên, Điền Trù, Vương Tu, Bỉnh Nguyên, Quản Ninh
12 Thôi Mao Từ Hà Hình Bão Tư Mã truyện Thôi Diễm, Mao Giới, Từ Dịch, Hà Quỳ, Hình Ngung, Bào Huân, Tư Mã Chi
13 Chung Do Hoa Hâm Vương Lãng truyện Chung Do, Hoa Hâm, Vương Lãng
14 Trình Quách Đổng Lưu Tưởng Lưu truyện Trình Dục (phụ: Trình Hiểu), Quách Gia, Đổng Chiêu, Lưu Diệp, Tưởng Tế, Lưu Phóng
15 Lưu Tư Mã Lương Trương Ôn Giả truyện Lưu Phức, Tư Mã Lãng, Lương Tập, Trương Ký, Ôn Khôi, Giả Quỳ
16 Nhâm Tô Đỗ Trịnh Thương truyện Nhâm Tuấn, Tô Tắc, Đỗ Kỳ, Đỗ Thứ, Trịnh Hồn, Thương Từ
17 Trương Nhạc Vu Trương Từ truyện Trương Liêu, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Cáp, Từ Hoảng (phụ: Chu Linh)
18 Nhị Lý Tang Văn Lã Hứa Điển nhị Bàng Diêm truyện Lý Điển, Lý Thông, Tang Bá, Tôn Quán, Văn Sính, Lã Kiền, Hứa Chử, Điển Vi, Bàng Đức, Bàng Dục, Diêm Ôn
19 Nhâm Thành Trần Tiêu vương truyện Tào Chương, Tào Thực, Tào Hùng
20 Vũ Văn thế vương công truyện Con của Vũ Đế: Tào Ngang, Tào Thước, Tào Xung, Tào Cứ, Tào Vũ, Tào Lâm, Tào Cổn, Tào Huyền, Tào Tuấn, Tào Củ, Tào Cán, Tào Thượng, Tào Bưu, Tào Cần, Tào Thừa, Tào Chỉnh, Tào Kinh, Tào Quân, Tào Cấc, Tào Huy, Tào Mậu;
Con của Văn Đế: Tào Hiệp, Tào Nhuy, Tào Giám, Tào Lâm, Tào Lễ, Tào Ung, Tào Cống, Tào Nghiễm
21 Vương Vệ nhị Lưu Phó truyện Vương Xán (phụ: Từ Cán, Trần Lâm, Nguyễn Vũ, Ưng Sướng, Lưu Trinh), Vệ Ký, Lưu Dị, Lưu Thiệu, Phó Hỗ
22 Hoàn nhị Trần Từ Vệ Lư truyện Hoàn Giai, Trần Quần (phụ: Trần Thái), Trần Kiểu, Từ Tuyên, Vệ Trăn, Lư Dục
23 Hòa Thường Dương Đỗ Triệu Bùi truyện Hòa Hiệp, Thường Lâm, Dương Tuấn, Đỗ Tập, Triệu Nghiễm, Bùi Tiềm
24 Hàn Thôi Cao Tôn Vương truyện Hàn Kỵ, Thôi Lâm, Cao Nhu, Tôn Lễ, Vương Quán
25 Tân Bì Dương Phụ Cao Đường Long truyện Tân Tì, Dương Phụ, Cao Đường Long
26 Mãn Điền Khiên Quách truyện Mãn Sủng, Điền Dự, Khiên Chiêu, Quách Hoài
27 Từ Hồ nhị Vương truyện Từ Mạc, Hồ Chất, Vương Sưởng, Vương Cơ
28 Vương Vô Khâu Gia Cát Đặng Chung truyện Vương Lăng, Vô Khâu Kiệm, Gia Cát Đản, Đường Tư, Đặng Ngải, Chung Hội
29 Phương kỹ truyện Hoa Đà, Đỗ Quỳ, Chu Kiến Bình, Chu Tuyên, Quản Lộ
30 Ô Hoàn Tiên Ti Đông Di truyện Ô Hoàn, Tiên Ti, Phù Dư, Cao Câu Ly, Ốc Trở, Ấp Lâu, Uế, Tam Hàn (Mã Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn), Nụy

Thục chí[7]

Quyển Tựa đề Nội dung
31 Lưu nhị mục truyện Lưu Yên, Lưu Chương
32 Tiên chủ truyện Lưu Bị
33 Hậu chủ truyện Lưu Thiện
34 Nhị chủ phi tử truyện Hoàng hậu của tiên chủ: Cam Hoàng hậu, Mục Hoàng hậu; hoàng hậu của hậu chủ: Kính Ai Hoàng hậu, Trương Hoàng hậu; con của tiên chủ: Lưu Vĩnh, Lưu Lý; thái tử của hậu chủ: Lưu Tuyền
35 Gia Cát Lượng truyện Gia Cát Lượng (phụ: Gia Cát Kiều, Gia Cát Chiêm, Đổng Quyết)
36 Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung, Triệu Vân
37 Bàng Thống Pháp Chính truyện Bàng Thống, Pháp Chính
38 Hứa My Tôn Giản Y Tần truyện Hứa Tĩnh, My Chúc, My Phương, Tôn Càn, Giản Ung, Y Tịch, Tần Bật
39 Đổng Lưu Mã Trần Đổng Lã truyện Đổng Hòa, Lưu Ba, Mã Lương, Mã Tốc, Trần Chấn, Đổng Doãn, Trần Chi, Lã Nghệ
40 Lưu Bành Liêu Lý Lưu Ngụy Dương truyện Lưu Phong, Bành Dạng, Liêu Lập, Lý Nghiêm, Lưu Diễm, Ngụy Diên, Dương Nghi
41 Hoắc Vương Hướng Trương Dương Phí truyện Hoắc Tuấn, Hoắc Dặc, Vương Liên, Hướng Lãng, Hướng Sủng, Trương Duệ, Dương Hồng, Phí Thi, Vương Xung
42 Đỗ Chu Đỗ Hứa Mạnh Lai Doãn Lý Tiều Khước truyện Đỗ Vi, Chu Quần, Đỗ Quỳnh, Hứa Từ, Mạnh Quang, Lai Mẫn, Doãn Mặc, Lý Soạn, Tiều Chu, Khích Chính
43 Hoàng Lý Lã Mã Vương Trương truyện Hoàng Quyền, Lý Khôi, Lã Khải, Mã Trung, Vương Bình, Trương Ngực
44 Tưởng Uyển Phí Y Khương Duy truyện Tưởng Uyển, Phí Y, Khương Duy
45 Đặng Trương Tông Dương truyện Đặng Chi, Trương Dực, Tông Dự, Liêu Hóa, Dương Hý

Ngô chí[7]

Quyển Tựa đề Nội dung
46 Tôn phá lỗ thảo nghịch truyện (nguyên tên là Tôn Kiên Tôn Sách truyện) Tôn Kiên, Tôn Sách
47 Ngô chủ truyện (nguyên tên là Tôn Quyền truyện) Tôn Quyền
48 Tam tự chủ truyện (nguyên tên là Tôn Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện) Tôn Lượng, Tôn Hưu, Tôn Hạo
49 Lưu Do Thái Sử Từ Sĩ Nhiếp truyện Lưu Do (phụ: Trách Dung, Lưu Cơ), Thái Sử Từ, Sĩ Nhiếp
50 Phi tần truyện Phi tần của Tôn Kiên: Ngô phu nhân (phụ: Ngô Cảnh); phi tần của Tôn Quyền: Tạ phu nhân, Từ phu nhân, Bộ phu nhân, Vương phu nhân, Vương phu nhân, Phan phu nhân); phi tần của Tôn Lượng: Toàn phu nhân; phi tần của Tôn Hưu: Chu phu nhân; phi tần của Tôn Hòa: Hà Cơ; phi tần của Tôn Hạo: Đằng phu nhân
51 Tông thất truyện Tôn Tĩnh, Tôn Du, Tôn Hiệu, Tôn Hoán, Tôn Bí, Tôn Phụ, Tôn Dực, Tôn Khuông, Tôn Thiều, Tôn Hoàn
52 Trương Cố Gia Cát Bộ truyện Trương Chiêu (phụ: Trương Phấn, Trương Thừa, Trương Hưu), Cố Ung (phụ: Cố Thiệu, Cố Đàm, Cố Thừa), Gia Cát Cẩn, Bộ Chất
53 Trương Nghiêm Trình Hám Tiết truyện Trương Hoành, Nghiêm Tuấn, Trình Bỉnh, Hám Trạch, Tiết Tống
54 Chu Du Lỗ Túc Lã Mông truyện Chu Du, Lỗ Túc, Lã Mông
55 Trình Hoàng Hàn Tưởng Chu Trần Đổng Cam Lăng Từ Phan Đinh truyện Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, Tưởng Khâm, Chu Thái, Trần Vũ, Đổng Tập, Cam Ninh, Lăng Thống, Từ Thịnh, Phan Chương, Đinh Phụng
56 Chu Trị Chu Nhiên Lã Phạm Chu Hoàn truyện Chu Trị, Chu Nhiên, Lã Phạm, Chu Hoàn
57 Ngu Lục Trương Lạc Lục Ngô Chu truyện Ngu Phiên, Lục Tích, Trương Ôn, Lạc Thống, Lục Mạo, Ngô Xán, Chu Cứ
58 Lục Tốn truyện Lục Tốn, Lục Kháng
59 Ngô chủ ngũ tử truyện (nguyên tên là Tôn Quyền ngũ tử truyện) Tôn Đăng, Tôn Lự, Tôn Hòa, Tôn Bá, Tôn Phấn
60 Hạ Toàn Lã Chu Chung Ly truyện Hạ Tề, Toàn Tông, Lã Đại, Chu Phường, Chung Ly Mục
61 Phan Tuấn Lục Khải truyện Phan Tuấn, Lục Khải
62 Thị Nghi Hồ Tống truyện Thị Nghi, Hồ Tống (phụ: Từ Tường)
63 Ngô Phạm Lưu Đôn Triệu Đạt truyện Ngô Phạm, Lưu Đôn, Triệu Đạt
64 Gia Cát Đằng nhị Tôn Bộc Dương truyện Gia Cát Khác, Đằng Dận, Tôn Tuấn, Tôn Lâm, Bộc Dương Hưng
65 Vương Lâu Hạ Vi Hoa truyện Vương Phồn, Lâu Huyền, Hạ Thiệu, Vi Chiêu[8], Hoa Hạch

Ngoài ra còn có quyển 66: Tự lục (nay thất truyền).

Bản dịch tiếng Việt

  • Tam quốc chí, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính, Nhà xuất bản Văn học và Nhà sách Tri thức Trẻ, tháng 6/2016, 3 tập.[9]

Bố cục:

  • Tập 1 gồm Lời giới thiệu (của Phạm Thành Long), Niên biểu, Thống kê các sự kiện chính, Tựa (của Võ Hoàng Giang), Ngụy thư từ quyển 1 đến Quyển 13, 744 trang. Kèm một bản đồ 4 trận đánh lớn (Quan Độ, Xích Bích, Hồ Đình (Hào Đình), Kỳ Sơn năm 228).
  • Tập 2: Ngụy thư từ Quyển 14 đến Quyển 30, 728 trang.
  • Tập 3: Thục thưNgô thư, từ Quyển 31 đến Quyển 65, 920 trang.

Trích dẫn tiêu biểu

  • "Kê lặc" (gân gà): Ngụy thư quyển 1, Vũ Đế kỷ, Bùi Tùng Chi dẫn sách Cửu châu Xuân Thu của Tư Mã Bưu viết:

Thời Vương dục hoàn, xuất lệnh viết"kê lặc", quan thuộc bất tri sở vị. Chủ bộ Dương Tu tiện tự nghiêm trang, nhân kinh vấn Tu:"Hà dĩ tri chi?"

Tu viết:"Phù kê lặc, khí chi như khả tích, thực chi vô sở đắc, dĩ tỷ Hán Trung, tri Vương dục hoàn dã".

Khi Vương muốn rút về, mới ra lệnh rằng"kê lặc", các quan không hiểu ý gì. Quan chủ bộ là Dương Tu liền tự thu xếp hành trang, mọi người kinh ngạc hỏi Tu:"Làm sao ông biết?"

Tu đáp:"Gân gà, bỏ đi thì tiếc, ăn vào thì không ra gì, lấy nó để ví với đất Hán Trung, biết Vương đã muốn lui rồi" (時王欲還,出令曰「雞肋」,官屬不知所謂。主簿楊脩便自嚴裝,人驚問脩:「何以知之?」脩曰:「夫雞肋,棄之如可惜,食之無所得,以比漢中,知王欲還也。」

  • "Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri" (lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết): Ngụy thư quyển 4, Tam Thiếu Đế kỷ, Bùi Tùng Chi dẫn sách Hán Tấn Xuân Thu của Tập Tạc Xỉ viết: Đế kiến uy quyền nhật khứ, bất thăng kỳ phẫn. Nãi triệu thị trung Vương Thẩm, thượng thư Vương Kinh, tán kỵ thường thị Vương Nghiệp, vị viết:"Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri dã. Ngô bất năng tọa thụ phế nhục, kim nhật đương dữ khanh tự xuất thảo chi"= Vua thấy uy quyền càng ngày càng mất, không nén nổi căm giận. Bèn triệu quan thị trung Vương Thẩm, quan thượng thư Vương Kinh và tán kỵ thường thị Vương Nghiệp, nói rằng:"Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết. Ta không thể ngồi yên chịu nhục, hôm nay muốn cùng các khanh đi thảo phạt nghịch tặc"(帝見威權日去,不勝其忿。乃召侍中王沈、尚書王經、散騎常侍王業,謂曰:「司馬昭之心,路人所知也。吾不能坐受廢辱,今日當與卿自出討之。」
  • "Lão sinh thường đàm" (lời thầy đồ thường nói): Ngụy thư quyển 29, Quản Lộ truyện, Đặng Dương nói với Quản Lộ:"Thử lão sinh chi thường đàm"(此老生之常譚 - Đó là lời lũ thầy đồ thường nói). Quản Lộ đáp:"Phù lão sinh giả kiến bất sinh, thường đàm giả kiến bất đàm"(夫老生者見不生,常譚者見不譚 - Lão sinh đã thấy thì không sinh, thường đàm đã thấy thì không đàm)
  • "Lạc bất tư Thục" (vui không nhớ đến nước Thục nữa): Thục thư quyển 3, Hậu chủ truyện, Bùi Tùng Chi dẫn sách Hán Tấn Xuân Thu của Tập Tạc Xỉ viết: Vương vấn Thiện viết:"Phả tư Thục phủ?"Thiện viết:"Thử gian lạc, bất tư Thục"= Vương hỏi Thiện rằng:"Có nhớ nước Thục không?"Thiện đáp:"Ở đây vui lắm, không nhớ nước Thục nữa"(王問禪曰:「頗思蜀否?」禪曰:「此間樂,不思蜀。)

Đánh giá

Tam quốc chí là chính sử ghi chép về thời Tam quốc của Trung Quốc, được xếp vào danh sách nhị thập tứ sử. Đương thời đại thần nhà TấnTrương Hoa đánh giá rất cao tác phẩm này. Sau khi Trần Thọ mất, Thượng thư lang Phạm Quân dâng biểu tâu rằng:

Trần Thọ viết Tam quốc chí, lời văn nhiều chỗ khuyên răn, tỏ rõ mọi điều lợi hại, có ích cho phong hóa, tuy văn không hay bằng Tương Như nhưng chất thì ngay thẳng hơn nhiều, nguyện xin sao lục[10].

Lưu Hiệp, người thời Lương (Nam-Bắc triều) đánh giá Tam quốc chí của Trần Thọ như sau:

Tam quốc chí của Trần Thọ thấm nhuần chất văn, Tuân, Trương đem so sánh với Thiên, Cố chẳng phải là quá lời[11].

Thiếu sót lớn nhất của Tam quốc chí là chỉ có bản kỷ và liệt truyện, không có phần chí và biểu, do đó tác phẩm chủ yếu chép về các nhân vật thời Tam quốc chứ không chép về địa lý, kinh tếchế độ chính trị. Tính khách quan của Trần Thọ khi viết sử cũng còn nhiều ý kiến phê bình khác nhau, như Tấn thư của Phòng Huyền Linh ghi lại rằng:

Đinh Nghi, Đinh Dị là hai người có tiếng ở nước Ngụy, Thọ bảo con họ rằng:"Nếu tìm cho ta được nghìn hộc lương, ta sẽ vì tôn phụ mà viết truyện cho hay."Họ Đinh không mang đến nên không được viết truyện. Cha Thọ làm tham quân cho Mã Tốc, Tốc bị Gia Cát Lượng giết, cha Thọ cũng bị xử tội cắt tóc, Gia Cát Chiêm lại khinh Thọ. Thọ viết truyện về Lượng, bảo Lượng mưu lược không cao, không có tài ứng địch, bàn luận thì chỉ dựa vào sách vở, tiếng tăm vượt quá sự thực. Người bàn lấy đó để chê[12].

Lưu Tri Kỷ trong Sử thông, thiên Trực thư phê bình việc Trần Thọ không đề cập đến việc Tư Mã Ý gặp bất lợi khi tác chiến với Gia Cát Lượng và việc Tào Mao phát binh đánh Tư Mã Chiêu, bị Thành Tế giết:

Lúc Tuyên, Cảnh mới khai sáng cơ nghiệp, khi (họ) Tào và (họ Tư) Mã tranh giành, hoặc dựng doanh trại ở sông Vị, bị thua Vũ hầu, hoặc phát binh ở Vân Đài (đánh Tư Mã Chiêu), bị Thành Tế hại chết, Trần Thọ, Vương Ẩn đều ngậm miệng không nói đến[13].

Đường Canh, người thời Bắc Tống phê bình cách xưng hô quốc hiệu Thục Hán của Trần Thọ như sau:

Trên từ Sử ký Tư Mã Thiên, dưới đến Ngũ Đại sử, trong khoảng mấy ngàn năm, từ vương bá chính thống đến tiếm ngôi loạn tặc, từ các nước nhỏ, cho đến các nước Man Di Nhung Địch ở bên ngoài, sử gia không bao giờ là không ghi chép quốc hiệu, nhưng Tam quốc chí thì không thế. Cha con Lưu Bị nối tiếp nhau cai trị hơn bốn chục năm, trước sau đều xưng quốc hiệu là Hán, chưa từng xưng là Thục bao giờ, nếu như có xưng Thục thì cũng chỉ là lời tục xưng mà thôi. Trần Thọ phế bỏ chính hiệu, dùng lời tục xưng, làm theo ý riêng của Ngụy Tấn, bỏ đi phép công của người viết sử. Dụng ý như thế, thì những việc thiện ác khen chê trong sách chắc cũng định đoạt luôn, là đáng tin ư![14]

Đường Canh còn ghi lại lời Vương An Thạch khuyên Âu Dương Tu biên soạn lại lịch sử thời Tam Quốc:

Trước kia Âu Dương Văn Trung công viết Ngũ Đại sử, Vương Kinh công nói rằng: Chuyện thời Ngũ Đại, không đủ để ghi chép, sao đủ làm phiền đến ông. Những chuyện đáng vui mừng thời Tam Quốc rất nhiều, đều bị Trần Thọ phá hoại. Bây giờ có thể viết lại[15].

Tam quốc chí quyển 20: Vũ Văn thế Vương Công truyện có chép việc Tào Xung cân voi, Hà Trác (người thời Thanh) nghi ngờ rằng việc này không chắc đã có thật:

Tôn Sách chết vào năm Kiến An thứ năm, Tôn Quyền mới lên thay, đến năm Kiến An thứ mười lăm Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp đem anh em đến vâng theo mệnh lệnh, sau đó (người Ngô) mới có thể biết được loài voi to (ở Giao Châu), còn Thương Thư (tên tự của Tào Xung) thì đã mất vào năm Kiến An thứ mười ba, do đó việc (Tào Xung cân voi) là bịa đặt. Vạch mực nước đánh dấu trên thuyền thì nghi rằng toán thuật cũng có phép này.[16]

Tam quốc chí quyển 30: Ô Hoàn Tiên Ti Đông Di truyện đã dựa vào các tư liệu từ Ngụy thư của Vương Thẩm và Ngụy lược của Ngư Hoạn để ghi chép về Nhật Bản - quốc gia ở phía đông Trung Quốc. Đây là sử liệu rất quan trọng ghi chép lịch sử Nhật Bản thời kỳ cổ đại.

Ảnh hưởng

Vào cuối thời Nguyên đầu thời Minh, La Quán Trung đã căn cứ vào các truyền thuyết dân gian, thoại bản, hý khúc cùng các tài liệu lịch sử là Tam quốc chí của Trần ThọTam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi để viết nên tác phẩm Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa (gọi tắt là Tam quốc diễn nghĩa).

Tiểu thuyết này có ảnh hưởng rất lớn ở Trung Quốc và nhiều nước châu Á. Trong khi Tam quốc chí là chính sử, thì Tam quốc diễn nghĩa lại là tiểu thuyết văn học lịch sử, tác giả đã thêm thắt nhiều truyền thuyết, truyện kể dân gian để tăng thêm tính hấp dẫn; do đó Tam quốc diễn nghĩa có tính chất là "thất thực tam hư" (bảy phần thực, ba phần hư cấu), độ tin cậy về lịch sử dĩ nhiên không cao bằng Tam quốc chí.

Chú thích

  1. ^ Tam quốc chí: Giới thiệu tác giả trên Bách độ bách khoa
  2. ^ Tùy thư, Kinh tịch chí, quyển 33 chép rằng Tam quốc chí ngoài 65 quyển còn có 1 quyển Tự lục, Đường thư, Kinh tịch thượng, quyển 46 và Tân Đường thư, Nghệ văn chí, quyển 58 chép rằng Ngô quốc chí có 21 quyển kể cả quyển Tự lục, do đó có thể xác định Tam quốc chí nguyên bản có 66 quyển.
  3. ^ Kinh Thư trong phần Nghiêu điển đã dùng chữ tồ để chỉ cái chết của Đường Nghiêu "Nhị thập hữu bát tải, đế nãi tồ lạc". Vào thời Tam quốc chữ tồ thường được dùng cho đế vương, như Gia Cát Lượng trong phần đầu Xuất sư biểu đã viết: "Tiên đế sáng nghiệp vị bán nhi trung đạo băng tồ".
  4. ^ Các nhân vật này được ghi chép trong quyển 1 và quyển 2 phần Đế kỷ của sách Tấn thư do Phòng Huyền Linh chủ biên.
  5. ^ Cù Lâm Đông, Trung Quốc sử học sử cương, Công ty TNHH Xuất bản sách Ngũ Nam xuất bản, 2002, ISBN 9789571129679.
  6. ^ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, thời nhà Thanh: "Nhất thị dẫn chư gia chi luận, dĩ biện thị phi; nhị thị tham chư gia chi thuyết, dĩ hạch ngụy dị; tam thị truyện sở hữu chi sự, tường kỳ ủy khúc; tứ thị truyện sở vô chi sự, bổ kỳ khuyết dật; ngũ thị truyện sở hữu chi nhân, tường kỳ sinh bình; lục thị truyện sở vô chi nhân, phụ dĩ đồng loại".
  7. ^ a b c Các bản Tam quốc chí hiện nay đều gọi là Ngụy thư, Thục thư, Ngô thư
  8. ^ Tam quốc chí viết là Vi Diệu (韋曜) do kiêng húy của Tấn Văn Đế Tư Mã Chiêu
  9. ^ Tam Quốc Chí Lưu trữ 2018-02-20 tại Wayback Machine CÔNG TY TNHH SÁCH VÀ TRUYỀN THÔNG VN Số trang: 2750 Kích thước: 15,5*23,5. Ngày phát hành: 10/4/2017
  10. ^ Tấn thư, quyển 82, Trần Thọ truyện: "Trần Thọ tác Tam quốc chí, từ đa khuyến giới, minh hồ đắc thất, hữu ích phong hóa, tuy văn diễm bất nhược Tương Như, nhi chất trực quá chi, nguyện thùy thái lục."
  11. ^ Văn tâm điêu long, Sử truyện, quyển 16: "Duy Trần Thọ Tam chí, văn chất biện hiệp, Tuân, Trương tỷ chi ư Thiên, Cố, phi vọng dự dã."
  12. ^ Tấn thư, quyển 82, Trần Thọ truyện: "Hoặc vân Đinh Nghi, Đinh Dị hữu thịnh danh ư Ngụy, Thọ vị kì tử viết:"Khả mịch thiên hộc mễ kiến dữ, đương vi tôn công tác giai truyện."Đinh bất dữ chi, cánh bất vi lập truyện. Thọ phụ vi Mã Tốc tham quân, Tốc vi Gia Cát Lượng sở tru, Thọ phụ diệc tọa bị khôn, Gia Cát Chiêm hựu khinh Thọ. Thọ vi Lượng lập truyện, vị Lượng tương lược phi trường, vô ứng địch chi tài, ngôn chiêm duy công thư, danh quá kì thực. Nghị giả dĩ thử thiểu chi."
  13. ^ Sử thông, thiên Trực thư: "Đương Tuyên, Cảnh khai cơ chi thủy, Tào, Mã cấu phân chi tế, hoặc liệt doanh Vị khúc, kiến khuất Vũ hầu, hoặc phát trượng Vân Đài, thủ thương Thành Tế, Trần Thọ, Vương Ẩn hàm đỗ khẩu nhi vô ngôn."
  14. ^ Đường Canh, Tam quốc tạp sự: "Thượng tự Tư Mã Thiên Sử ký, hạ chí Ngũ Đại sử, kỳ gian số thiên bách niên, chính thống thiên bá dữ phu tiếm thiết loạn tặc, thậm vi chí nhược chi quốc, ngoại chí Man Di Nhung Địch chi bang, sử gia vị hữu bất thư kỳ quốc hiệu giả, nhi Tam quốc chí độc bất nhiên. Lưu Bị phụ tử tương kế tứ thập dư niên, thủy chung hiệu Hán, vị thường nhất xưng Thục; kì xưng Thục, tục lưu chi ngữ nhĩ. Trần Thọ truất kỳ chính hiệu, tòng kỳ tục xưng, tuần Ngụy Tấn chi tư ý, phế sử gia chi công pháp. Dụng ý như thử, tắc kỳ sở thư thiện ác bao biếm dư đoạt, thượng khả tín hồ!"
  15. ^ Đường Canh, Tam quốc tạp sự: "Vãng thời Âu Dương Văn Trung công tác Ngũ Đại sử, Vương Kinh công viết: Ngũ Đại chi sự, vô túc thái giả, thử hà túc phiền công? Tam Quốc khả hỉ sự thậm đa, tất vi Trần Thọ sở hoại. Khả canh vi chi."
  16. ^ Lương Chương Cự, Tam quốc chí bàng chứng: "Tôn Sách dĩ Kiến An ngũ niên tử, thì Tôn Quyền sơ thống sự, chí Kiến An thập ngũ niên Quyền khiển Bộ Chất mã vi Giao Châu Thứ sử, Sĩ Nhiếp suất huynh đệ phụng thừa tiết độ, thử hậu hoặc năng trí cự tượng, nhi Thương Thư dĩ vu Kiến An thập tam niên tiền tử hỹ, tri thử sự vọng sức dã. Trí thủy khắc thuyền, nghi toán thuật trung bản hữu thử pháp."

Xem thêm

Liên kết ngoài

  • Nguyên bản chữ Hán
  • x
  • t
  • s
Tứ thư
Đại Học  · Trung Dung  · Luận ngữ  · Mạnh Tử
Ngũ kinh
Tứ sử
Sử ký  · Hán thư  · Hậu Hán thư  · Tam quốc chí
Tứ đại danh tác
Tứ đại kỳ thư
Ngũ đại truyền kỳ
Kinh thoa ký  · Bạch thố ký  · Bái nguyệt đình  · Sát cẩu ký  · Tì bà ký
Lục tài tử thư
Khác