Dejima

Dejima
Tên bản ngữ
  • 出島
1641–1854
Quốc kỳ Dejima
Quốc kỳ
Quốc huy Dejima
Quốc huy
Một bức tranh toàn cảnh về cách bố trí và cấu trúc của Dejima (được sao chép từ bản in mộc bản của Toshimaya Bunjiemon năm 1780 và xuất bản trong quyển Bijzonderheden over Japan (1824/25) của Isaac Titsingh
Một bức tranh toàn cảnh về cách bố trí và cấu trúc của Dejima (được sao chép từ bản in mộc bản của Toshimaya Bunjiemon năm 1780 và xuất bản trong quyển Bijzonderheden over Japan (1824/25) của Isaac Titsingh
Tổng quan
Vị thếThương điếm
Thủ đôDejima
Ngôn ngữ thông dụngtiếng Hà Lan
Opperhoofd 
• 1641
Maximiliaan le Maire
• 1671–1672
Johannes Camphuys
• 1723–1725
Johannes Thedens
• 1798–1800
Leopold Willem Ras
• 1852–1860
Janus Henricus Donker Curtius
Lịch sử
Thời kỳChủ nghĩa đế quốc
• Thương điếm của Hà Lan chuyển về từ Hirado
1641
1854
Tiền thân
Kế tục
Đế quốc Bồ Đào Nha
Mạc phủ Tokugawa
Dejima và Vịnh Nagasaki, khoảng năm 1820. Hai tàu của Hà Lan và rất nhiều thuyền của Trung Quốc được miêu tả.
Quang cảnh đảo Dejima nhìn từ Vịnh Nagasaki (Kawahara Keiga, 1836)
Philipp Franz von Siebold (với Taki và người con Ine) đang theo dõi một con tàu Hà Lan đang cập bến Dejima (tranh vẽ bởi Kawahara Keiga, khoảng giữa 1823-29)
Phần trung tâm của Dejima được tái tạo lại

Dejima (Nhật: 出島 (Xuất Đảo), Dejima? "đảo xuất khẩu"),[1] tên gọi Latin hoá trong các tài liệu phương Tây cổ là Decima, Desjima, Dezima, Disma, hoặc Disima, là một đảo nhân tạo nhỏ hình cánh quạt, được xây dựng ngoài khơi vịnh Nagasaki năm 1634 bởi các thương nhân địa phương. Hòn đảo này, được hình thành bằng cách đào một con kênh thông qua một bán đảo nhỏ, trong quá khứ từng là nơi duy nhất cho phép hoạt động thương mại và trao đổi trực tiếp giữa Nhật Bản và thế giới bên ngoài trong thời kỳ Edo.[2] Dejima được xây dựng để hạn chế thương nhân nước ngoài như một phần của sakoku, một chính sách biệt lập tự áp đặt. Ban đầu được xây dựng để đặt cho các thương nhân người Bồ Đào Nha, nó được người Hà Lan sử dụng làm thương điếm (địa bàn để tập trung kinh doanh) từ năm 1641 cho tới năm 1853. Chiếm diện tích 120 m × 75 m (390 ft × 250 ft) hoặc 9.000 m2 (2,2 mẫu Anh), nó sau đó được hợp nhất bởi thành phố thông qua quá trình cải tạo đất.

Năm 1922, "Thương điếm Hà Lan Dejima" được chỉ định là một di tích lịch sử quốc gia của Nhật Bản.

Lịch sử

Năm 1543, lịch sử liên lạc trực tiếp giữa Nhật Bản và châu Âu bắt đầu với sự xuất hiện của các thương nhân người Bồ Đào Nha bị bão đánh dạt vào ở Tanegashima. Sáu năm sau, nhà truyền giáo Dòng Tên Francis Xavier đã đặt chân tới Kagoshima. Lúc đầu các thương nhân người Bồ Đào Nha có trụ sở tại Hirado, nhưng họ chuyển đi để tìm kiếm một cảng tốt hơn. năm 1570 daimyō Ōmura Sumitada đã cải đạo sang Công giáo (chọn Bartolomeu làm tên thánh của mình) và đạt được một thỏa thuận với người Bồ Đào Nha để phát triển Nagasaki; sớm sau đó cảng này được mở ra để thông thương. Năm 1580, Sumitada trao quyền hạn pháp lý về Nagasaki cho những người Dòng Tên, và người Bồ Đào Nha đã giành được độc quyền trên thực tế về kinh tế trong trao đổi hàng hoá vải vóc với Trung Quốc thông qua Ma Cao.

Tướng quân Iemitsu đã yêu cầu xây dựng hòn đảo nhân tạo này vào năm 1634, để đáp ứng cho các thương nhân người Bồ Đào Nha sống ở Nagasaki và ngăn cản việc tuyên truyền tôn giáo của họ. Đây là một trong những sắc lệnh do Iemitsu đưa ra từ năm 1633 tới năm 1639, nhằm làm giảm sự tiếp xúc giữa Nhật Bản và các nước khác. Tuy nhiên, để đối phó với cuộc nổi dậy của những người dân chủ yếu là Kitô hữu ở vùng Shimabara-Amakusa, Mạc phủ Tokugawa đã quyết định trục xuất những người Bồ Đào Nha; điều này khiến cho các nhân viên người Hà Lan của Công ty Đông Ấn Hà Lan (Vereenigde Oostindische Compagnie, VOC) trở thành quốc gia phương Tây duy nhất có quyền tiếp cận thương mại với Nhật Bản.

Từ năm 1609, người Hà Lan đã điều hành một thương điếm trên hòn đảo Hirado. Trong 33 năm, họ được phép buôn bán tương đối tự do. Vào thời điểm cao trào, thương điếm tại Hirado đã chiếm được một thị phần rộng lớn.[3] Vào năm 1637 và 1639, các kho hàng bằng đá được xây dựng trong phạm vi thương điếm của Hirado này.

Năm 1639, người Bồ Đào Nha cuối cùng đã bị trục xuất khỏi Nhật Bản. Dejima đã trở thành một khoản đầu tư thất bại và nếu không có sự thông thương hằng năm với các tàu của Bồ Đào Nha từ Ma Cao, nền kinh tế của Nagasaki đã có thể bị suy yếu mạnh. Nhờ các chính sách hạn chế nhưng linh hoạt và sự thù địch của bản thân đối với người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha - những người vốn đã có cả nền tảng tôn giáo và chính trị - chỉ riêng người Hà Lan được miễn trừ trục xuất, nhưng họ bị các quan chức chính phủ buộc phải di chuyển từ Hirado đến Dejima.[4]

Từ năm 1641, chỉ có tàu Trung Quốc và Hà Lan được phép đến Nhật, và Nagasaki là cảng duy nhất mà họ được phép vào.

Cơ cấu tổ chức

Ở cấp hành chính, đảo Dejima là một phần của thành phố Nagasaki. Hai mươi lăm gia đình Nhật Bản sở hữu đất đều nhận được phí thuê đất hàng năm từ Hà Lan. Dejima là một hòn đảo nhỏ, có kích cỡ 120 x 75 mét,[5] nối với đất liền bằng một cây cầu nhỏ, được canh gác ở cả hai phía, và có một cổng ở phía Hà Lan. Nơi đây có nhà ở cho khoảng 20 người Hà Lan, kho hàng, và nhà ở cho các quan chức Nhật Bản. Những người Hà Lan bị chịu sự theo dõi bởi một số quan chức, lính gác cổng, lính canh đêm và một vị quan giám sát (otona 乙名) với khoảng năm mươi người dưới quyền. Có một số thương gia cung cấp hàng hoá và dịch vụ ăn uống, và khoảng 150 người phiên dịch (tsūji 通詞) đã phục vụ. Họ đều phải được trả lương bởi VOC. Giống như thành phố Nagasaki, Dejima cũng chịu sự giám sát trực tiếp từ Edo thông qua một thống đốc (Nagasaki bugyō).

Mỗi con tàu đến Dejima đều được kiểm tra, những cánh buồm của nó đều bị người Nhật giữ lại cho đến khi họ thả tàu ra. Họ tịch thu sách về tôn giáo và vũ khí. Người Hà Lan không được phép duy trì bất kỳ dịch vụ tôn giáo nào trên đảo.

Mặc cho gánh nặng tài chính của việc duy trì tiền đồn cô lập trên Dejima, thương mại với Nhật Bản rất có lợi cho người Hà Lan, ban đầu đem lại lợi nhuận từ 50% trở lên. Tuy vậy, thương mại đã suy giảm trong thế kỷ 18, chỉ có hai tàu mỗi năm được phép cập cảng tại Dejima. Sau sự phá sản của Công ty Đông Ấn vào năm 1795, chính phủ Hà Lan đã tiếp quản sự thông thương với Nhật Bản. Những thời điểm đó thật sự khó khăn, khi mà Hà Lan (sau này gọi là Cộng hoà Batavia) chịu sự cai trị của nước Pháp thời Napoleon. Mọi sự liên lạc với quê hương đã bị cắt đứt tại Dejima, và trong một khoảng thời gian, đó là nơi duy nhất trên thế giới mà lá cờ Hà Lan tung bay.

Viên chức đứng đầu của Hà Lan ở Nhật Bản được người Hà Lan gọi là Opperhoofd, hoặc Kapitan (bắt nguồn từ tiếng Bồ Đào Nha capitão) bởi người Nhật. Danh xưng mô tả này không thay đổi khi giao dịch của hòn đảo nằm dưới quyền của nhà nước Hà Lan. Trong những năm này, theo kế hoạch là phải có một vị quan trưởng thay thế mỗi năm - nhưng đôi khi các kế hoạch cần được linh hoạt.

Thương mại

Ban đầu, người Hà Lan chủ yếu kinh doanh lụa, bông và dược liệu (materia medica) từ Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng đường đã trở nên quan trọng hơn sau đó. Ngoài ra, da lông của hươu và da cá mập được vận chuyển đến Nhật Bản từ Đài Loan, cũng như sách, dụng cụ khoa học và nhiều thứ khác từ châu Âu. Đổi lại, các thương nhân Hà Lan đã mua đồng, bạc, long não, đồ sứ, đồ sơn mài và gạo của Nhật Bản.

Những việc buôn bán này đã làm gia tăng trao đổi thương mại cá nhân của nhân viên VOC ở Dejima, đây là một nguồn thu quan trọng cho họ và các đối tác Nhật Bản của họ. Họ đã bán hơn 10.000 cuốn sách nước ngoài về nhiều chủ đề khoa học cho người Nhật từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Những cuốn sách này đã trở thành nền tảng của kiến ​​thức và là một nhân tố trong phong trào Rangaku, hay phong trào nghiên cứu về Hà Lan.

Các chuyến cập cảng của tàu thuyền

Trong toàn bộ thời gian, 606 tàu Hà Lan đã đến Dejima trong hai thế kỷ định cư, từ năm 1641 tới 1847.

  • Giai đoạn đầu (từ 1641 tới 1671) khá tự do, trung bình có 7 tàu Hà Lan được cập cảng mỗi năm (12 tàu bị chìm trong thời kỳ này).
  • TỪ 1671 tới 1715, có khoảng 5 tàu Hà Lan được phép cập bến Dejima mỗi năm.
  • Từ 1715, mỗi năm chỉ có 2 tàu được cấp phép, con số này giảm xuống còn 1 tàu vào năm 1790, và tăng trở lại thành 2 tàu vào năm 1799.
  • Trong suốt Chiến tranh Napoléon (1803–1815), trong đó Hà Lan bị chiếm đóng (và trở thành chư hầu) bởi Pháp, các tàu Hà Lan không thể tiếp cận an toàn với Nhật Bản khi đối mặt với sự phản đối của Anh. Họ đã dựa vào các tàu "trung lập" của Hoa Kỳ và Đan Mạch. (Khi Hà Lan trở thành một tỉnh thuộc Pháp (1811–1814), và Anh chiếm thuộc địa của Hà Lan ở châu Á, Dejima trong bốn năm là nơi duy nhất trên thế giới mà cờ Hà Lan tự do tung bay, theo lệnh của Hendrik Doeff.)
  • Sau khi giải phóng Hà Lan năm 1815, giao thông thương mại thông thường của Hà Lan được tái thiết lập.

Chính sách Toả quốc

Trong hai trăm năm, thương nhân nước ngoài nói chung không được phép đi từ Dejima tới Nagasaki. Người Nhật cũng bị cấm vào Dejima, ngoại trừ thông dịch viên, đầu bếp, thợ mộc, thư ký và 'phụ nữ giải khuây' từ khách điếm Maruyama. Những yūjo này được lựa chọn kỹ bắt đầu từ năm 1642 bởi người Nhật, thường là chống lại ước muốn của những người này. Từ thế kỷ 18, có một số trường hợp ngoại lệ đối với quy tắc này, đặc biệt là tiếp nối học thuyết của Tokugawa Yoshimune về việc về việc thúc đẩy các ngành khoa học thực tiễn của châu Âu. Một vài Oranda-yuki ("những người ở với người Hà Lan") được phép ở lại lâu hơn, nhưng họ phải báo cáo thường xuyên cho trạm gác của Nhật Bản. Mỗi năm một lần, người châu Âu được phép tham dự lễ hội tại Đền Suwa dưới sự hộ tống. Đôi khi các thầy thuốc như Engelbert Kaempfer, Carl Peter Thunberg, và Philipp Franz von Siebold được gọi từ các bệnh nhân ở tầng lớp thượng lưu trong xã hội Nhật Bản với sự cho phép của chính quyền.[6] Bắt đầu từ thế kỷ 18, Dejima trở nên nổi tiếng khắp Nhật Bản như một trung tâm y khoa, khoa học quân sự và thiên văn học. Nhiều samurai đã đến đó để "học tập về Hà Lan" (Rangaku).

Ngoài ra, Opperhoofd bị đối xử như đại diện của một quốc gia chư hầu, có nghĩa là ông phải đến diện kiến nhằm bày tỏ sự thần phục tới shogunEdo. Phái đoàn Hà Lan đã tới Edo hằng năm trong khoảng từ 1660 tới 1790, và sau đó kéo dài thành bốn năm một lần. Đặc quyền này bị từ chối đối với thương nhân Trung Quốc. Chuyến đi dài tới triều đình Mạc phủ là điểm nhấn đáng chú ý của thời gian người Hà Lan xuất hiện ở Nhật Bản, nhưng đó là một chuyến đi tốn kém. Các quan lại chính quyền đã truyền đạt trước về chi tiết những món quà (đắt tiền) được mong đợi ở triều đình, như kính trắc tinh, kính mắt, kính thiên văn, quả địa cầu, dụng cụ y tế, sách y tế, hoặc động vật kỳ lạ và chim nhiệt đới. Đổi lại, phái đoàn Hà Lan nhận được một số quà từ shogun. Khi đến Edo, Opperhoofd và đoàn tuỳ tùng (thường là người ghi chép báo cáo và bác sĩ của thương điếm) phải đợi ở Nagasakiya (長崎屋), nơi ở bắt buộc của họ, cho đến khi họ được triệu tập tới diện kiến tại triều đình. Sau khi hội kiến chính thức, họ sẽ được yêu cầu, theo Engelbert Kaempfer, biểu diễn các điệu múa và bài hát của Hà Lan để giải trí cho shogun. Điều này chỉ xảy ra trong thời trị vì của Tokugawa Tsunayoshi, một người được cho là hơi lập dị, nhưng họ cũng sử dụng cơ hội ở lại khoảng hai đến ba tuần ở thủ đô để trao đổi kiến ​​thức với việc học tiếng Nhật và, dưới sự hộ tống, đến tham quan thị trấn.

Sự giới thiệu điều mới mẻ tới Nhật Bản

Cảnh chơi cầu lông ở Dejima, k. thế kỷ 18
Người Hà Lan chơi billiard ở Dejima, k. thế kỷ 19
  • Nhiếp ảnh, những bài học đầu tiên về nhiếp ảnh được đưa tới người Nhật vào năm 1856 bởi bác sĩ của hòn đảo, J.K. van den Broek.
  • Cầu lông, một môn thể thao có nguồn gốc ở Ấn Độ, được người Hà Lan giới thiệu vào thế kỷ 18; được nhắc đến trong Sayings of the Dutch.
  • Billiard được giới thiệu vào Nhật Bản từ Dejima vào năm 1764; nó được gọi là "quả bóng va vào bàn" (玉突の場) trong tranh vẽ của Kawahara Keika (川原慶賀).
  • Bia dường như đã được giới thiệu là hàng nhập khẩu trong giai đoạn cô lập. Thống đốc Hà Lan Doeff đã sản xuất loại bia của riêng mình tại Nagasaki, sau sự gián đoạn thương mại trong Chiến tranh Napoléon. Quá trình sản xuất bia địa phương bắt đầu ở Nhật Bản vào năm 1880.
  • Cỏ ba lá được người Hà Lan giới thiệu ở Nhật như là vật liệu đóng gói cho hàng dễ vỡ. Người Nhật gọi nó là "Cỏ gói hàng màu trắng" (シロツメクサ), dựa vào loại hoa trắng của nó.
  • Cà phê được người Hà Lan giới thiệu ở Nhật với tên gọi Mokakoffie. Tên thứ hai đã xuất hiện trong các cuốn sách Nhật Bản vào thế kỷ 18. Siebold đề cập đến những người nghiện cà phê nghiệp dư Nhật Bản ở Nagasaki khoảng năm 1823.
  • Chiếc piano cổ nhất Nhật Bản được Siebold giới thiệu vào năm 1823, và sau đó được trao cho người bán hàng tên là Kumaya (熊谷). Ngày nay, chiếc đàn piano này được trưng bày tại Bảo tàng nghệ thuật Kumaya (熊谷美術館), thành phố Hagi.
  • Sơn (hắc ín), được sử dụng cho tàu thuyền, đã được giới thiệu bởi người Hà Lan. Tên tiếng Hà Lan gốc (pek) cũng được mượn vào tiếng Nhật (Penki/ペンキ).
  • Cải bắpcà chua được giới thiệu bởi người Hà Lan vào thế kỷ 17.
  • Chocolate được giới thiệu khoảng giữa năm 1789 và 1801; nó được đề cập như là một thức uống cho các khu nhà thổ ở Maruyama. [cần dẫn nguồn]

Trung tâm đào tạo hải quân Nagasaki

Trung tâm đào tạo Nagasaki, ở Nagasaki, nằm cạnh Dejima (ở phía sau nền).

Sau khi Nhật Bản buộc phải mở cửa bởi Thiếu tướng hải quân Hoa Kỳ Matthew C. Perry vào năm 1854, Mạc phủ đột ngột tăng các liên hệ với Dejima trong nỗ lực học hỏi kiến ​​thức về các phương thức vận tải phương Tây. Trung tâm đào tạo hải quân Nagasaki (長崎海軍伝習所, Nagasaki Kaigun Denshūsho?), một học viện đào tạo hải quân, được chính quyền shogun thành lập năm 1855 tại lối vào của Dejima để có thể tương tác tối đa với các kiến thức về hải quân của Hà Lan. Trung tâm này được trang bị tàu hơi nước đầu tiên của Nhật Bản, tàu Kankō Maru, do chính phủ Hà Lan đưa ra cùng năm. Đô đốc tương lai Enomoto Takeaki là một trong những sinh viên của Trung tâm.

Tái thiết

Quang cảnh đảo Dejima k.1870

Thương điếm của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Dejima đã bị bãi bỏ khi Nhật Bản kết thúc Hiệp ước Kanagawa với Hoa Kỳ vào năm 1858. Điều này đã góp phần kết thúc vị thế của Dejima như cửa ngõ duy nhất của Nhật Bản với thế giới phương Tây trong thời kỳ cô lập quốc gia. Kể từ đó, hòn đảo được mở rộng bằng đất khai hoang và sáp nhập vào Nagasaki. Việc thiết kế lại mở rộng cảng Nagasaki vào năm 1904 đã che đi vị trí ban đầu của nó.[7] Dấu vết cũ của đảo Dejima được đánh dấu bởi các đinh tán; nhưng khi quá trình phục hồi diễn ra, phạm vi của hòn đảo sẽ dễ nhìn thấy hơn.

Các ranh giới thời kỳ Edo của đảo Dejima (vạch ra màu đỏ) trong địa bàn thành phố hiện đại Nagasaki.

Dejima ngày nay là một địa điểm đang được hoàn thành. Hòn đảo được chỉ định là một di tích lịch sử quốc gia vào năm 1922, nhưng các bước tiếp theo diễn ra một cách chậm chạp. Công việc khôi phục đã được bắt đầu vào năm 1953, nhưng dự án đó đã bị đình trệ.[7] Năm 1996, việc khôi phục Dejima bắt đầu với kế hoạch xây dựng lại 25 tòa nhà trong địa điểm đầu thế kỷ 19 của chúng. Để hiển thị tốt hơn hình dạng cánh quạt của Dejima, dự án dự kiến ​​xây dựng lại chỉ những phần của kè xung quanh đã từng bao quanh hòn đảo. Các toà nhà còn tồn tại từ thời kỳ Minh Trị vẫn được sử dụng.

Vào năm 2000, năm tòa nhà bao gồm khu nhà ở của Phó viên chức được hoàn thành và mở cửa cho du khách tham quan. Vào mùa xuân năm 2006, những chi tiết hoàn thiện là khu nhà của Viên chức đứng đầu, văn phòng của quan chức Nhật Bản, khu nhà của Thư ký trưởng, Kho hàng số 3 (No. 3 Warehouse), và Hải Môn (Sea Gate). Hiện nay, có khoảng 10 tòa nhà trong khu vực đã được khôi phục.

Kế hoạch dài hạn dự định rằng Dejima sẽ được bao quanh bởi nước ở cả bốn mặt; dạng cánh quạt đặc trưng và tất cả các bờ kè của nó sẽ được khôi phục hoàn toàn. Kế hoạch dài hạn này sẽ bao gồm quá trình tái phát triển đô thị quy mô lớn trong khu vực này. Để biến Dejima trở thành đảo một lần nữa, sẽ cần phải định tuyến lại sông Nakashima và di chuyển một phần của Tuyến 499.

Niên đại

  • 1550: Các tàu của Bồ Đào Nha cập bến Hirado.
  • 1561: Sau vụ giết người nước ngoài trong khu vực của gia tộc Hirado, người Bồ Đào Nha bắt đầu tìm kiếm các cảng khác để buôn bán.
  • 1570: Daimyō Công giáo Ōmura Sumitada đạt một thỏa thuận với người Bồ Đào Nha để phát triển Nagasaki, sáu khối thị trấn được xây dựng.
  • 1571: Cảng Nagasaki mở cửa cho trao đổi thương mại, các tàu Bồ Đào Nha đầu tiên nhập cảng.
  • 1580: Ōmura Sumitada nhượng quyền kiểm soát Nagasaki và Mogi cho các linh mục Dòng Tên.
  • 1588: Toyotomi Hideyoshi kiểm soát trực tiếp Nagasaki, Mogi và Urakami từ các linh mục Dòng Tên.
  • 1609: Công ty Đông Ấn Hà Lan mở một nhà máy ở Hirado. Nó đóng cửa vào năm 1641 khi được chuyển tới Dejima.
  • 1612: Chính quyền phong kiến Nhật Bản ra lệnh cấm nhập đạo Công giáo trong đất đai của Mạc phủ.
  • 1616: Tất cả hoạt động thương mại với người nước ngoài, ngoại trừ với Trung Quốc, chỉ giới hạn ở Hirado và Nagasaki.
  • 1634: Việc xây dựng Dejima bắt đầu.
  • 1636: Dejima được hoàn thành; người Bồ Đào Nha được tập trung lại ở Dejima (Sắc lệnh Biệt lập Quốc gia thứ IV).
  • 1638: Khởi nghĩa Shimabara của nông dân Công giáo bị đàn áp với sự hỗ trợ của Hà Lan, Công giáo ở Nhật bị đàn áp.
  • 1639: Các tàu Bồ Đào Nha bị cấm nhập cảnh vào Nhật Bản. Do đó, người Bồ Đào Nha bị trục xuất khỏi Dejima.
  • 1641: Thương điếm của Công ty Thương mại Hà Lan Đông Ấn ở Hirado được chuyển đến Nagasaki.
  • 1649: Bác sĩ phẫu thuật người Đức Caspar Schamberger đến Nhật Bản. Bắt đầu một sự quan tâm lâu dài về y học phương Tây.
  • 1662: Một cửa hàng được mở ra ở Dejima để bán đồ sứ Imari.
  • 1673: Tàu "Return" của Anh cập bến Nagasaki, nhưng chính quyền Mạc phủ từ chối yêu cầu thông thương.
  • 1678: Một cây cầu nối Dejima với bờ được thay bằng một cây cầu bằng đá.
  • 1690: Bác sĩ người Đức Engelbert Kaempfer đến Nhật Bản.
  • 1696: Các kho hàng hóa thứ cấp hoàn thành trên Dejima.
  • 1698: Nagasaki Kaisho (hiệp hội thương mại) được thành lập.
  • 1699: Hải Môn (công biển) được xây dựng ở Dejima.
  • 1707: Đường ống nước được lắp đặt trên Dejima.
  • 1775: Carl Thunberg bắt đầu nhiệm kỳ của ông là bác sĩ ở Dejima.
  • 1779: Bác sĩ phẫu thuật Isaac Titsingh tham gia chuyến công du đầu tiên với vai trò "Opperhoofd".
  • 1798: Nhiều tòa nhà, bao gồm khu nhà của Viên chức đứng đầu, bị thiêu rụi trong trận Đại Hoả hoạn Kansei của Dejima.
  • 1804: Đại sứ Nga Nikolai Rezanov viếng thăm Nagasaki để yêu cầu trao đổi thương mại giữa Nhật Bản và Đế quốc Nga.
  • 1808: Sự biến Phaeton xảy ra.
  • 1823: Bác sĩ người Đức Philipp Franz von Siebold tới Dejima.

Quản lý trưởng của thương điếm (Opperhoofden)

Opperhoofd là một từ tiếng Hà Lan (số nhiều opperhoofden) nghĩa đen là '[người] đứng đầu tối cao'. TNgười Nhật từng gọi quản lý trưởng của thương điếm là kapitan, có nguồn gốc từ tiếng Bồ Đào Nha capitão (cf. Latin caput, người đứng đầu). Theo cách sử dụng lịch sử của nó, từ này là một tiêu đề của nhà lãnh đạo, tương đương với chức vị chief factor trong tiếng Anh, đối với giám đốc điều hành của một đại lý nước ngoài của Hà Lan theo nghĩa kinh doanh, dẫn đầu bởi một quản lý trưởng, nghĩa là người đại diện cho đại lý.

Các opperhoofden đáng chú ý ở Hirado

  • François Caron: 3.2.1639 - 13.2.1641 [Caron là Opperhoofd cuối cùng ở Hirado.]

Các opperhoofden đáng chú ý ở Dejima

  • François Caron: 3.2.1639 - 13.2.1641 [Caron là Opperhoofd đầu tiên ở sau sự bắt buộc chuyển từ Hirado.]
  • Zacharias Wagenaer [Wagener]: 1.11.1656 - 27.10.1657
  • Zacharias Wagenaer [Wagener]: 22.10.1658 - 4.11.1659
  • Andreas Cleyer [Andries]: 20.10.1682 - 8.11.1683
  • Andreas Cleyer: 17.10.1685 - 5.11.1686
  • Hendrik Godfried Duurkoop: 23.11.1776 - 11.11.1777
  • Isaac Titsingh: 29.11.1779 - 5.11.1780
  • Isaac Titsingh: 24.11.1781 - 26.10.1783
  • Isaac Titsingh: _.8.1784 - 30.11.1784
  • Hendrik Doeff: 14.11.1803 - 6.12.1817
  • Jan Cock Blomhoff: 6.12.1817 - 20.11.1823
  • Janus Henricus Donker Curtius: 2.11.1852 - 28.2.1860 [Donker Curtius trở thành người cuối cùng trong một danh sách dài những opperhoofden gan dạ người Hà Lan đóng quân tại Dejima; và một cách ngẫu nhiên, Curtius cũng trở thành người đầu tiên trong số nhiều đại diện ngoại giao và thương mại của Hà Lan tại Nhật Bản trong thời kỳ tiền Minh Trị đang phát triển.]

Hình ảnh

  • Người Hà Lan với các Keisei (kỹ nữ hạng sang), Nagasaki, k. 1800.
    Người Hà Lan với các Keisei (kỹ nữ hạng sang), Nagasaki, k. 1800.
  • Hendrik Doeff và một người hầu người Bali ở Dejima, tranh Nhật Bản, k. đầu thế kỷ 19.
    Hendrik Doeff và một người hầu người Bali ở Dejima, tranh Nhật Bản, k. đầu thế kỷ 19.
  • Tượng đài dựng lên tại Dejima bởi Siebold để tôn vinh Kaempfer và Thunberg
    Tượng đài dựng lên tại Dejima bởi Siebold để tôn vinh Kaempfer và Thunberg
  • Mô hình quy mô của thương điếm Hà Lan được trưng bày tại Dejima (1995)
    Mô hình quy mô của thương điếm Hà Lan được trưng bày tại Dejima (1995)

Xem thêm

  • Triều cống của Hà Lan tới Edo
  • Quan hệ Nhật-Hà Lan
  • Mậu dịch Nanban
  • Sakoku
  • The Thousand Autumns of Jacob de Zoet - Tiểu thuyết lịch sử lấy bối cảnh Dejima
  • Khu định cư nước ngoài Nagasaki
  • Quảng Châu Thập tam hành, một khu vực cũ của Quảng Châu, Trung Quốc, nơi thương mại nước ngoài đầu tiên được cho phép trong thế kỷ 18 kể từ khi chính sách hải cấm (海禁) cấm hoạt động hàng hải.
  • Ghost in the Shell: S.A.C. 2nd GIG - Phần lớn các hoạt động tập trung vào những người tị nạn định cư trên đảo và cuối cùng cố gắng tuyên bố độc lập

Chú thích

  1. ^ “Dejima Nagasaki”. Truy cập 6 tháng 4 năm 2017.
  2. ^ Nagasaki Visitor's Guide. “Dejima (Desima, Deshima) - Site of the Former Dutch Trading Post”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2017.
  3. ^ Edo-Tokyo Museum exhibition catalog. (2000). A Very Unique Collection of Historical Significance: The Kapitan (the Dutch Chief) Collection from the Edo Period – The Dutch Fascination with Japan, p. 206.
  4. ^ Edo-Tokyo Museum exhibition catalog, p. 207.
  5. ^ Ken Vos - The article "Dejima als venster en doorgeefluik" in the catalogue (Brussels, ngày 5 tháng 10 năm 1989 - ngày 16 tháng 12 năm 1989) of the exhibition Europalia 1989: "Oranda: De Nederlanden in Japan (1600-1868)
  6. ^ Trong ngữ cảnh "mở cửa" của Nhật Bản năm 1853 của Thiếu tướng hải quân Perry, các nhà quy hoạch thám hiểm hải quân Hoa Kỳ đã kết hợp tài liệu tham khảo được viết bởi những người đàn ông đã từng xuất bản các báo cáo về Nhật Bản, dựa trên kinh nghiệm trực tiếp. J.W. Spaulding mang theo cuốn sách của ông bởi các nhà Nhật Bản học Engelbert Kaempfer, Carl Peter Thunberg, và Isaac Titsingh. Screech, T. (2006). Secret Memoirs of the Shoguns: Isaac Titsingh and Japan, 1779-1822, p. 73.
  7. ^ a b Edo-Tokyo Museum exhibition catalog, p. 47.

Tham khảo

  • Blomhoff, J.C. (2000). The Court Journey to the Shogun of Japan: From a Private Account by Jan Cock Blomhoff. Amsterdam
  • Blussé, L. et al., eds. (1995–2001) The Deshima [sic] Dagregisters: Their Original Tables of Content. Leiden.
  • Blussé, L. et al., eds. (2004). The Deshima Diaries Marginalia 1740-1800. Tokyo.
  • Boxer. C.R. (1950). Jan Compagnie in Japan, 1600-1850: An Essay on the Cultural, Artistic, and Scientific Influence Exercised by the Hollanders in Japan from the Seventeenth to the Nineteenth Centuries. Den Haag.
  • Caron, François. (1671). A True Description of the Mighty Kingdoms of Japan and Siam. London.
  • Doeff, Hendrik. (1633). Herinneringen uit Japan. Amsterdam. [Doeff, H. "Recollections of Japan" (ISBN 1-55395-849-7)]
  • Edo-Tokyo Museum exhibition catalog. (2000). A Very Unique Collection of Historical Significance: The Kapitan (the Dutch Chief) Collection from the Edo Period—The Dutch Fascination with Japan. Catalog of "400th Anniversary Exhibition Regarding Relations between Japan and the Netherlands," a joint project of the Edo-Tokyo Museum, the City of Nagasaki, the National Museum of Ethnology, the National Natuurhistorisch Museum and the National Herbarium of the Netherlands in Leiden, the Hà Lan. Tokyo.
  • Leguin, F. (2002). Isaac Titsingh (1745–1812): Een passie voor Japan, leven en werk van de grondlegger van de Europese Japanologie. Leiden.
  • Mitchell, David (2010). The Thousand Autumns of Jacob de Zoet. London.
  • Nederland's Patriciaat, Vol. 13 (1923). Den Haag.
  • Screech, Timon. (2006). Secret Memoirs of the Shoguns: Isaac Titsingh and Japan, 1779-1822. London: RoutledgeCurzon. ISBN 0-7007-1720-X
  • Siebold, P.F.v. (1897). Nippon. Würzburg / Leipzig.Click link for full text in modern German
  • Titsingh, I. (1820). Mémoires et Anecdotes sur la Dynastie régnante des Djogouns, Souverains du Japon. Paris: Nepveau.
  • Titsingh, I. (1822). Illustrations of Japan; consisting of Private Memoirs and Anecdotes of the reigning dynasty of The Djogouns, or Sovereigns of Japan. London: Ackerman.

Liên kết ngoài

  • Dejima: The Island Comes Back to Life Lưu trữ 2011-05-14 tại Wayback Machine
  • Trading-post chiefs, surgeons, physicians and other employees at the VOC factories Hirado and Dejima[liên kết hỏng]
  • Hendrick Hamel in Japan: Deshima, layout and building placement
  • WorldStatesmen - Japan
  • New York Public Library Digital Gallery: Bản đồ cảng Nagasaki của Engelbert Kaempfer, địa điểm Deshima năm 1727
  • x
  • t
  • s
Bắc Phi

Thế kỷ 15

1415–1640 Ceuta
1458–1550 Alcácer Ceguer (El Qsar es Seghir)
1471–1550 Arzila (Asilah)
1471–1662 Tangier
1485–1550 Mazagan (El Jadida)
1487–thế kỷ 16 Ouadane
1488–1541 Safim (Safi)
1489 Graciosa

Thế kỷ 16

1505–1541 Agadir
1506–1525 Mogador (Essaouira)
1506–1525 Aguz (Souira Guedima)
1506–1769 Mazagan (El Jadida)
1513–1541 Azamor (Azemmour)
1515–1541 São João da Mamora (Mehdya)
1577–1589 Arzila (Asilah)

Châu Phi hạ Sahara

Thế kỷ 15

1455–1633 Anguim
1462–1975 Cabo Verde
1470–1975 São Tomé1
1471–1975 Príncipe1
1474–1778 Annobón
1478–1778 Fernando Poo (Bioko)
1482–1637 Elmina (São Jorge da Mina)
1482–1642 Bờ Biển Vàng
1508–15472 Madagascar3
1498–1540 Quần đảo Mascarene

Thế kỷ 16

1500–1630 Malindi
1501–1975 Mozambique
1502–1659 Saint Helena
1503–1698 Zanzibar
1505–1512 Quíloa (Kilwa)
1506–1511 Socotra
1557–1578 Accra
1575–1975 Angola
1588–1974 Cacheu4
1593–1698 Mombassa (Mombasa)

Thế kỷ 17

1645–1888 Ziguinchor
1680–1961 São João Baptista de Ajudá, Bénin
1687–1974 Bissau4

Thế kỷ 18

1728–1729 Mombassa (Mombasa)
1753–1975 São Tomé và Príncipe

Thế kỷ 19

1879–1974 Guinea
1885–1974 Congo thuộc Bồ Đào Nha5

Trung Đông [Vịnh Ba Tư]

Thế kỷ 16

1506–1615 Bandar-Abbas
1507–1643 Sohar
1515–1622 Hormuz (Ormus)
1515–1648 Quriyat
1515–? Qalhat
1515–1650 Muscat
1515?–? Barka
1515–1633? Ras Al Khaimah
1521–1602 Bahrain (Muharraq • Manama)
1521–1529? Qatif
1521?–1551? Đảo Tarut
1550–1551 Qatif
1588–1648 Matrah

Thế kỷ 17

1620–? Khor Fakkan
1621?–? As Sib
1621–1622 Qeshm
1623–? Khasab
1623–? Libedia
1624–? Kalba
1624–? Madha
1624–1648 Dibba Al-Hisn
1624?–? Bandar-e Kong

Tiểu lục địa Ấn Độ

Thế kỷ 15

1498–1545
Quần đảo Laccadive
(Lakshadweep)

Thế kỷ 16
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1500–1663 Cochim (Kochi)
 • 1501–1663 Cannanore (Kannur)
 • 1502–1658
 1659–1661
Quilon
(Coulão / Kollam)
 • 1502–1661 Pallipuram (Cochin de Cima)
 • 1507–1657 Negapatam (Nagapatnam)
 • 1510–1961 Goa
 • 1512–1525
 1750
 • 1518–1619 Pulicat
 • 1521–1740 Chaul

  (Portuguese India)
 • 1523–1662 Mylapore
 • 1528–1666
Chittagong
(Porto Grande De Bengala)
 • 1531–1571 Chaul
 • 1531–1571 Chalé
 • 1534–1601 Đảo Salsette
 • 1534–1661 Bombay (Mumbai)
 • 1535 Ponnani
 • 1535–1739 Baçaím (Vasai-Virar)
 • 1536–1662 Cranganore (Kodungallur)
 • 1540–1612 Surat
 • 1548–1658 Tuticorin (Thoothukudi)
 • 1559–1961 Daman and Diu
 • 1568–1659 Mangalore

  (Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha)
 • 1579–1632Hugli
 • 1598–1610Masulipatnam (Machilipatnam)
1518–1521 Maldives
1518–1658 Ceylon thuộc Bồ Đào Nha (Sri Lanka)
1558–1573 Maldives

Thế kỷ 17
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1687–1749 Mylapore

Thế kỷ 18
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1779–1954 Dadra và Nagar Haveli

Đông Á và châu Đại Dương

Thế kỷ 16

1511–1641 Malacca thuộc Bồ Đào Nha [Malaysia]
1512–1621 Maluku [Indonesia]
 • 1522–1575  Ternate
 • 1576–1605  Ambon
 • 1578–1650  Tidore
1512–1665 Makassar
1557–1999 Ma Cao [Trung Quốc]
1580–1586 Nagasaki [Nhật Bản]

Thế kỷ 17

1642–1975 Timor thuộc Bồ Đào Nha (Đông Timor)1

Thế kỷ 19
Ma Cao thuộc Bồ Đào Nha

 • 1864–1999 Coloane
 • 1851–1999 Đãng Tể
 • 1890–1999 Ilha Verde

Thế kỷ 20
Ma Cao thuộc Bồ Đào Nha

 • 1938–1941 Lapa và Montanha (Hoành Cầm)

  • 1 1975 là năm Đông Timor tuyên bố độc lập cũng như là năm xảy ra cuộc xâm lược của Indonesia. Vào năm 2002, nền độc lập của Đông Timor được công nhận.
Bắc Mỹ & Bắc Đại Tây Dương

Thế kỷ 15 [các đảo Đại Tây Dương]

1420 Madeira
1432 Açores

Thế kỷ 16 [Canada]

1500–1579? Terra Nova (Newfoundland)
1500–1579? Labrador
1516–1579? Nova Scotia

Nam Mỹ & Antilles

Thế kỷ 16

1500–1822 Brasil
 • 1534–1549  Capitania của Brasil
 • 1549–1572  Brasil
 • 1572–1578  Bahia
 • 1572–1578  Rio de Janeiro
 • 1578–1607  Brasil
 • 1621–1815  Brasil
1536–1620 Barbados

Thế kỷ 17

1621–1751 Maranhão
1680–1777 Colonia del Sacramento

Thế kỷ 18

1751–1772 Grão-Pará và Maranhão
1772–1775 Grão-Pará và Rio Negro
1772–1775 Maranhão và Piauí

Thế kỷ 19

1808–1822 Cisplatina (Uruguay)
1809–1817 Amapá
1822 Thượng Peru (Bolivia)

  • x
  • t
  • s
Thuộc địa cũ
Châu Phi

Bờ biển vàng thuộc Hà Lan · Cape Colony · Đảo Arguin · Gorée · Mauritius · Vịnh Delagoa (Vịnh Maputo) ·

Châu Mỹ

Berbice · Brazil thuộc Hà Lan (gồm có Tân Hà Lan) · Guiana thuộc Hà Lan · Demerara · Essequibo (sáp nhập vào Pomeroon) · New Netherland (gồm có Tân Amsterdam • Tân Thụy Điển) · Tobago · Quần đảo Virgin

Châu Á
Châu Đại Dương

Ceylon · Ấn Độ thuộc Hà Lan (Bengal thuộc Hà Lan • Bờ biển Coromandel • Bờ biển Malabar) · Deshima (Dejima) · Tây Ấn thuộc Hà Lan · Malacca · New Guinea thuộc Hà Lan · Đài Loan

Bắc cực

Smeerenburg (Đảo Amsterdam)

Xem thêm Công ty Tây Ấn Hà Lan · Công ty Tây Ấn Hà Lan
Thuộc địa hiện tại
Vương quốc
Hà Lan