Chu Hi

Chu Hi
Chu Hi
Sinh(1130-10-08)8 tháng 10, 1130
Vưu Khê, Phúc Kiến, Nhà Tống
Mất23 tháng 4, 1200(1200-04-23) (69 tuổi)
Tên khácTự: Nguyên Hối (元晦)
Hiệu: Hối Am (晦庵)
Nghề nghiệpNhà triết học, chính trị gia, nhà văn, nhà sử học, nhà thư pháp
Thời kỳNam Tống
VùngTriết học Trung Quốc
Trường pháiNho giáo, Lý học
Ảnh hưởng bởi
Ảnh hưởng tới
Chu Hi
Tên Chu Hi viết dưới dạng khải thư
Tiếng Trung朱熹
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữZhū Xī
Gwoyeu RomatzyhJu Shi
Wade–GilesChu1 Hsi1
IPA[ʈʂú ɕí]
Tiếng Quảng Châu
Yale la tinh hóaJyū Hēi
IPA[tsýː héi]
Việt bínhZyu1 Hei1
Tiếng Mân Nam
Tâi-lôTsu Hi
Tiếng Hán trung cổ
Tiếng Hán trung cổtʃju hji
Tên tiếng Trung thay thế
Tiếng Trung朱子
Nghĩa đen"Chu tử"
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữZhūzǐ
Wade–GilesChu1-tzu3
IPA[ʈʂútsɨ̀]
Tiếng Quảng Châu
Yale la tinh hóaJyū-jí
Việt bínhZyu1-zi2
Tiếng Mân Nam
Tâi-lôTsu-tzú
Tượng Chu Hi tại Bạch Lộc Động thư viện ở Lư Sơn

Chu Hi (tiếng Trung: 朱熹, [ʈʂú ɕí]; 18 tháng 10 năm 113023 tháng 4 năm 1200) tự Nguyên Hối (元晦) hoặc Trọng Hối (仲晦), trai hiệu[a] Hối Am (晦庵), là một nhà thư pháp, nhà sử học, nhà triết học, nhà chính trị và nhà văn Trung Quốc thời nhà Tống. Đối với triết học Trung Quốc, ông định ra Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ cùng Mạnh Tử làm nhóm Tứ thư, hình thành nền tảng quan trọng cho khoa cử xuyên suốt các triều đại Trung Quốc từ năm 1313 đến năm 1905 và ảnh hưởng rất lớn tư duy từ nhà Minh về sau. Ông là người đã phát triển học thuyết lí – khí của Trình Hạo và Trình Di, đã đưa Lý học Tống Nho lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh, được gọi là Trình Chu lí học.[1][2] Những học thuyết của Chu Hi đã góp phần định hình cơ bản con người Trung Hoa cũng như thế giới quan cho hậu thế, cũng vì vậy mà ông được người đời tôn xưng "Chu Tử".

Ông là một học giả uyên bác, có kiến thức uyên thâm về những tác phẩm kinh điển, các loại bình thư,[b] sử ký, cũng như các tác phẩm của nhiều bậc tiền bối.[3][4] Khi trưởng thành, ông thường tránh né các loại công vụ,[5] nhưng ông vẫn nhiều lần đủ khả năng đứng vào hàng ngũ đại thần triều đình.[1] Chu Hi đã viết, biên soạn và hiệu đính gần một trăm cuốn sách và trao đổi thư từ với hàng chục học giả khác. Ông trải qua 4 đời Hoàng đế Nam Tống là Tống Cao Tông, Tống Hiếu Tông, Tống Quang Tông cùng Tống Ninh Tông; đóng vai trò như một người thầy của các nhóm sĩ phu, nhiều người trong số họ đã chọn theo học ông trong nhiều năm. Sau khi qua đời, ông được triều đình ban thụy hiệu là chữ Văn, nên còn được gọi Chu Văn Công (朱文公).

Cuộc đời

Thời niên thiếu

Giáo dục tại nhà

Chu Hi là người gốc huyện Vụ Nguyên, Huy Châu (vốn thuộc An Huy, đến năm 1952 đổi thành thuộc tỉnh Giang Tây). Ông là cháu chín đời của Chu Khôi (朱瓌),[c][d] thuộc dòng dõi họ Chu ở Tử Dương,[e] cùng dòng tộc với họ Chu ở Phượng Dương,[f] đều là hậu duệ của Chu Kính Tắc (朱敬則), một đại thần kiêm sử gia thời Đường Thái Tông. Chu Hi sinh vào giờ Ngọ ngày 19 tháng 9 (âm lịch) năm Kiếm Viêm thứ 4 (1130) triều Tống Cao Tông tại Trịnh Thị thảo đường (鄭氏草堂) nay là Nam Khê thư viện của huyện Vưu Khê,[6] châu Nam Kiếm,[g] nơi cha ông là Chu Tùng đang đảm nhiệm chức vụ Huyện úy.[7]

Chu Hi tiếp thu nền giáo dục Nho học từ sớm, lên 5 tuổi đã đọc được Hiếu Kinh. Ông đề vào sách 8 chữ "若不如此, 便不成人" (Nếu không như vậy, liền không thành người).[8] Năm Thiệu Hưng thứ 7 (1137), Chu Tùng được triệu tập về kinh đô. Trước khi đi, ông đã đưa vợ là Chúc thị cùng con trai Chu Hi về sống ở Phổ Thành. Đến năm 1140, Chu Tùng bị buộc từ quan sau khi phản đối chính sách hòa nghị với người Nữ Chân,[9] dâng thư chủ trường kháng Kim, chọc giận Tần Cối.[10][11] Từ đó, Chu Hi bắt đầu nhận được sự giáo dục của cha về những tác phẩm kinh điển của Nho gia.[12] Nhiều giai thoại đã kể lại rằng, Chu Hi là một đứa trẻ thông minh sớm. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tò mò về trận đồ bát quái,[13] lại từng hỏi cha mình về trời và những thứ bên ngoài bầu trời khi chỉ mới 4 tuổi.[14][15] Từ sớm ông đã được truyền cảm hứng bởi câu nói tất cả mọi người đều có thể trở thành một nhà hiền triết của Mạnh Tử.[16]

Sau khi cha qua đời

Năm 1143, Chu Tùng qua đời vì bệnh. Trước khi lâm chung, ông đã phó thác Chu Hi cho Lưu Tử Vũ,[h] lại viết thư nhờ cậy ba người bạn có học vấn và tu dưỡng thâm hậu là Lưu Tử Huy (刘子翚), Lưu Miễn Chi (刘勉之) và Hồ Hiến (胡宪) thay mình dạy dỗ Chu Hi.[17][18] Cả bốn người đều là người Ngũ Phu, Sùng An (nay là thành phố Vũ Di Sơn). Lưu Tử Vũ xem Chu Hi như con trai ruột, sắp xếp một viện riêng cho ông ở lại, đặt tên là "Tử Dương lâu" (紫阳楼).[19][20] Nơi này hiện là một trong những danh thắng hàng đầu ở Ngũ Phu.[21][22] Năm 1147, Chu Hi 18 tuổi thi đỗ Hương cống. Trong kì thi này, quan chủ khảo Thái Tư (蔡兹) đã nhận xét về ba sách luận của ông rằng:[23] "cả ba đều lo nghĩ cho việc lớn triều đình, sau này tất không phải kẻ tầm thường".[24][25] Mùa xuân năm 1148, Lưu Miễn Chi đã gả con gái cả của mình là Lưu Thanh Tứ cho Chu Hi.[26][27] Đến tháng 3 cùng năm, Chu Hi đến Lâm An (nay là Hàng Châu) tham gia thi Hội, đứng hạng 90 đệ ngũ giáp trên bảng Vương Tá,[28] đỗ Tiến sĩ.[29][18]

Con đường làm quan

Thời Cao Tông

Năm 1151, Chu Hi được triều đình phong làm Chủ bộ huyện Đồng An thuộc Tuyền Châu, đến năm 1153 thì ông chính thức đến Đồng An nhậm chức.[i][30] Trong thời gian tại nhiệm, ông rất nghiêm túc với công việc, thường xuyên xem xét các sổ sách thuế má, lại lấy giáo dục làm đầu. Đối với việc làm quan của ông, sách ghi chép địa phương có rất nhiều lời khen.[31] Ông làm quan đến năm 1156 thì nghỉ.[32] Từ năm 1153 ông đã bắt đầu thăm hỏi và trao đổi với Lý Đồng (李侗), một người theo truyền thống Nho giáo của Trình Hạo và Trình Di.[33] Hai năm sau khi hết nhiệm kỳ chính thức, ông nhận thấy những vấn nạn trong giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc gia, một lần nữa bước lên con đường tầm sư học đạo, quyết tâm theo học Lý Đồng. Đến năm 1160 thì Chu Hi chính thức trở thành học trò của Lý Đồng.[34] Đây cũng là người đã mang sự ảnh hưởng của Phật Giáo đến Chu Hi.[35] Việc được thừa hưởng "Lạc học" (洛学) chính thống từ Nhị Trình và Chu Đôn Di đã tạo nên nền tảng cơ sở cho học thuyết của Chu Hi về sau.[36]

Thời Hiếu Tông

Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162), Tống Hiếu Tông lên ngôi, xuống "Chiếu cầu trực ngôn" (诏求直言).[j] Chu Hi nghe chiếu dâng thư, trình lên ý kiến của mình nhưng dưới danh nghĩa của Lý Đồng.[37] Trong tấu sớ, ông chỉ rõ tình cảnh của triều Tống đương thời: "Biên cảnh lãnh thổ của tổ tiên chưa khôi phục, nỗi hổ thẹn nhục nhã với tông miếu chưa trừ, quan hệ với người Nhung nghị hòa bất thường, con dân khốn khổ đến cùng cực"; kịch liệt phản đối tiếp tục chính sách hòa nghị.[38] Tháng 11 năm sau, ông được triệu vào kinh thành Lâm An, đến nói trước mặt Tống Hiếu Tông,[39] bởi Lý Đồng vừa qua đời vào ngày 15 tháng 10.[40] Ông dâng 3 tờ trát lên cho Hoàng đế, mỗi tờ trát có một nội dung khác nhau bao gồm: nên chú trọng nghiên cứu Nho giáo thay vì Phật giáo, phản đối hòa nghị với nhà Kim và phản đối sủng tín nịnh thần.[40] Ba tờ trát của ông đã bao quát được cả giáo dục, ngoại giao và nội trị. Nhưng lúc bấy giờ triều đình đã chủ trương hòa nghị, chủ trương kháng Kim của Chu Hi không được tiếp thu. Tháng 11, triều đình phong cho Chu Hi làm Tiến sĩ Võ học của Quốc Tử giám, nhưng ông từ chối không nhận, xin quay về Phúc Châu.[k] Năm 1164, ông trở về để tang cho Lý Đồng.[42]

Đây có thể xem là một dấu mốc trên con đường học thuật của Chu Hi, cũng từ đây là ông dồn toàn bộ tâm huyết của mình vào việc nghiên cứu, viết và tranh luận với các học giả đương thời. Năm 1167, ông được đề cử trở lại triều đình với chức vụ quan biên soạn trong Xu mật viện, nhưng ông từ chối. Trong khoảng thời gian này, ông nhiều lần được đề bạt giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng ông đều từ chối.[43] Mãi đến năm 1178, ông một lần nữa bước chân vào quan trường dưới sự tiến cử của Sử Hạo (史浩).[44][45] Tống Hiếu Tông giao cho ông quản lý Nam Khang quân (南康軍) kiêm việc khuyến nông.[46] Dù ông đã khước từ nhiều lần nhưng triều đình không đồng ý. Cuối cùng vào năm 1179, ông đã đến nhậm chức Quận trưởng Nam Khang quân.[47][48] Đây cũng là nơi ông đã mời nhiều danh sư, làm phong phú thêm kho sách, lập ra một bộ giáo quy và hồi sinh Bạch Lộc Động thư viện (白鹿洞書院).[49][50] Bộ "Bạch Lộc Động thư viện giáo quy" không chỉ là nền tảng cho việc quản lý thư viện trường học Trung Quốc, trở thành bộ quy định cơ bản cho nhiều học viện ở Nhật BảnHàn Quốc,[51] mà còn là đầu đề cho nhiều nghiên cứu chế độ giáo dục trên thế giới.[52] Mùa hè năm 1180, Chu Hi phát hiện nạn hạn hán có nguy cơ kéo dài và ngày càng nghiêm trọng. Ông liên tục dâng tấu lên triều đình yêu cầu sự hỗ trợ kịp thời.[53] Sau khi nguy cơ nạn đói đã qua, năm 1181, ông xin từ chức.[54][55] Trong suốt hơn mười năm, Chu Hi liên tục được đề bạt vào nhiều vị trí khác nhau, nhưng ông đều từ chối. Đôi khi bị triều đình bác bỏ lời từ chối, ông cũng chỉ nhậm chức một thời gian ngắn rồi lại xin thôi.[56]

Thời Quang Tông và Ninh Tông

Tháng 2 năm 1189, Tống Quang Tông lên ngôi, phong chu Hi làm Tu soạn ở Bí các.[57] Đến tháng 5 thì vào Bảo Văn các (宝文阁).[58] Tháng 11, triều đình lại điều ông làm Tri châu Chương Châu, ông từ chối nhưng triều đình không chấp nhận, ông cũng chỉ đi nhậm chức một năm rồi lại thôi.[59] Tháng 3 năm 1191, ông lại được khôi phục chức Tu soạn ở Bí các, chủ quản Hồng Khánh cung ở Nam Kinh.[60][61] Tháng 8 năm Thiệu Hi thứ 5 (1194), Tống Ninh Tông lên ngôi, Chu Hi được phong làm Hoán Chương các Đãi chế,[l] kiêm Thị giảng Học sĩ (侍講學士).[62] Trong quá trình giảng sách cho Ninh Tông, khi phụng chiếu giảng Đại Học, ông đã nhiều lần nhấn mạnh 8 mục "Truy nguyên, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", hy vọng thông qua đó để uốn nắn lại đạo đức quân vương, hạn chế việc lạm dụng quân quyền. Ông cũng thường xuyên khuyên Ninh Tông không nên nghe theo Hàn Thác Trụ cũng như đám gian thần.[63] Điều này đã khiến cho Ninh Tông và Hàn Thác Trụ bất mãn. Cũng vì vậy mà chu Hi chỉ đảm nhiệm vị trí trong điều đình được 46 ngày đã bị Ninh Tông bãi chức Thị giảng.[64][65]

Trong suốt thời gian này, đảng phái của Hàn Thác Trụ liên tục công kích Chu Hi cũng như điểm, triết lý của ông.[66][67] Đặc biệt là sau khi Thác Trụ trở thành Tể tướng, Lý học bị cho là "ngụy học", một thuyết học thuật sai lầm.[68] Năm 1196, Họa đảng cấm hay còn gọi là "Khánh Nguyên đảng cấm" nổi tiếng của nhà Tống chính thức xảy ra. Giám sát Ngự sử Trầm Kế Tổ dưới sự giật dây của Hàn Thác Trụ đã dùng những lời đồn bịa đặt mà tố cáo Chu Hi "10 tội trạng lớn".[69][70] Quý tộc triều đình đã làm dấy lên một phong trào thanh trừng tàn khốc hiếm thấy đối với Lý học, Chu Hi bị gán cho tội danh "đứng đầu ngụy học".[71] Cuối cùng dưới áp lực từ các các phe cánh, Chu Hi bị bãi chức Tu soạn, những người liên quan đến ông và Lý học cũng bị lưu vong học bắt nhốt.[72] Tháng 12 năm 1198, ông xin từ quan về quê, được triều đình phong làm Vụ Nguyên Khai Quốc nam (婺源開國男), thực ấp 300 hộ.[73] Ngày 9 tháng 3 (âm lịch) năm Khánh Nguyên thứ 6 (1200), Chu Hi qua đời, thọ 70 tuổi. Dù bị ảnh hưởng nặng nề từ "Đảng cấm" nhưng đã có hơn ngàn người đến viếng tang Chu Hi.[74]

Vinh hiển sau khi qua đời

Năm Gia Định thứ 2 (1209), 2 năm sau khi Hàn Thác Trụ qua đời, Tống Ninh Tông xuống chiếu khôi phục danh dự cho Chu Hi, đồng thời truy tặng cho ông thụy hiệu Văn (), cũng từ đây mà hậu thế vẫn xưng ông là Chu Văn Công (朱文公).[75] Tháng 5 năm 1210, Ninh Tông tiếp tục ban tặng Chu Hi hàm Trung Đại phu (中大夫),[76] Bảo Mô các Trực học sĩ (宝谟阁直学士),[77] sau lại ban thêm hàm Thông Nghị Đại phu (通议大夫).[78] Tuy nhiên, mãi cho đến năm Gia Định thứ 4 (1211), lệnh cấm đối với "ngụy học" vẫn chưa có pháp lệnh chính phức hủy bỏ. Cho đến khi Lưu Phiến nhậm chức Quốc tử ti nghiệp, ông đã dâng sớ thỉnh cầu chính thức cởi bỏ lệnh cấm. Ông chỉ rõ trong tấu chương rằng, hơn mười năm từ sự kiện đảng cấm, vì ác quan hoành hành, nắm quyền triều chính, xem đạo là ngụy, bắt người, cấm sách mà khiến cho học giả không có đạo để tôn sùng, không phân rõ lợi và nghĩa.[79]

Năm Bảo Khánh thứ 2 (1227), Tống Lý Tông hạ chiếu truy tặng Chu Hi chức Thái sư và truy phong ông làm Tín Quốc công (信国公),[80] sau đổi thành Huy Quốc công (徽國公),[75] chiếu viết:

联观朱熹集注《大学》、《论语》、《孟子》、《中庸》,发挥圣贤蕴奥,有补治道,联励志讲学,缅怀典刑,可特赠惠太师,追封信国公.[81]

Trẫm đọc những cuốn sách Đại Học, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung của Chu Hi, thấy (những cuốn sách này) phát huy những điều uyên thâm khó giải của tiền nhân, lại có bổ sung hoàn chỉnh. Trẫm dốc lòng giảng học, nhớ lại hình phạt năm xưa, nay đặc biệt tặng Hi (Chu Hi) chức Thái sư, truy phong Tín Quốc công.

— Tống Lý Tông

Đến năm 1241, ông được đưa vào thờ tự trong Văn miếuKhúc Phụ cùng với Chu Đôn Di,[82][83] đồng thời, dưới sự bảo trợ của Tống Lý Tông, bộ Tứ thư và lời bình kèm theo của Chu Hi trở thành học liệu tiêu chuẩn dành cho những thí sinh muốn đỗ đạt khoa cử.[84][85] Đặc biệt, dưới sự phát triển, duy trì của Chân Đức Tú và Ngụy Liễu Ông,[m] nhánh Tân Nho giáo của Chu Hi không chỉ trở thành dòng Nho học chính thống,[87] mà còn là tư tưởng triết học thống trị tại triều đình nhà Tống đương thời.[88] Năm Đức Hữu đầu tiên (1275), Tống Lý Tông đã đích thân viết tấm biển "Nam Khê thư viện" để treo tại nơi mà Chu Hi sinh ra.[89][90]

Đến thời Minh, ông thường được tôn xưng là "Chu Tử" (朱子). Năm Sùng Trinh thứ 15, ông được xếp vào sau Thất thập nhị hiền của Nho giáo, trước cả các Nho gia thời Hán Đường, đặc biệt xưng "Đại hiền Chu tử" (大贤朱子). Năm Khang Hi thứ 51 (1712), Chu Hi được xếp vào sau "Mười vị triết gia" (十哲, Thập triết) đương thời. Đến năm Càn Long thứ 3 (1738), tiếp tục thêm Hữu Nhược (有若) vào, chính thức trở thành "Mười hai triết gia" (十二哲, Thập nhị triết) của Nho giáo cho đến ngày nay.[91]

Tư tưởng

Theo Chu Hi, "lí""khí" không tách rời nhau:「"Trong thiên hạ, không hề có khí mà không có lí, cũng không hề có lí mà không có khí"」. Nhưng lại khẳng định 「"Trước khi có trời đất đã có lí"[92], 「"Lí có trước, khí có sau"」, 「"Có lí này thì có khí này, nhưng lí là gốc"」.

Ông đã kế thừa quan điểm "nhất vật lưỡng thể" của Trương Tải, cho rằng "Phàm là vật thì không đâu là không tương phản để tương thành", vật chỉ là "một chia thành hai, mỗi bước đều như thế, cho đến cùng, tất cả đều là một sinh hai"[93]. Ông cho rằng sự vật vận động qua hai hình thức: "hoá" và "biến", "hoá" là biến đổi từ từ, chậm chạp; "biến" là biến đổi đột xuất, nhanh chóng.

Về quan hệ tri hành thì cho tri trước hành sau, nhưng xét về tầm quan trọng thì cho hành quan trọng hơn tri và nhấn mạnh vai trò của hành trong nhận thức. Về vấn đề tính người thì cho rằng thánh hiền bẩm thụ khí trong, kẻ ngu hèn bẩm thụ khí đục, cho rằng con người thì có tính thiên mệnh (đạo tâm) và tính khí chất (nhân tâm). Nhấn mạnh sự đối lập giữa "thiên lí" và "nhân dục", chủ trương vứt bỏ "tư dục" và phục tùng "thiên lí". Về quan niệm lịch sử, Chu Hi cho rằng thời cổ đại lưu hành thiên lí, còn thời sau thì thiên lí mất đi và nhân dục xuất hiện ngày càng nhiều.

Lí luận của Chu Hi về thiên lí và nhân dục yêu cầu mọi người phải tự an với phận mình, được gọi là 「Tồn thiên lí, khắc nhân dục; 存天理、滅人欲」.

Giáo dục

Sau khi từ quan, Chu Hi về dạy học ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây. Ông dành hết thời gian cho việc giáo dục và viết sách. Theo ông, học nên tuần tự từ từ, không nên tham lam, vội vã. Học tập tất phải kết hợp với suy nghĩ. Học tập phải bao quát hai phương diện là đọc sách và thực hành.

Các lời giảng của Chu Hi được chấp nhận là chính thống trong một thời kì dài suốt hơn 800 năm, kể cả hai triều đại MinhThanh, cho tới thế kỉ XX, khiến hình thức Tống nho này thật sự ảnh hưởng sâu sắc trong quá trình kết cấu xã hội Trung Hoa, và có lẽ chỉ bớt đi từ lúc bỏ khoa cử, năm 1905, và bị tạm gián đoạn kể từ năm 1949, khi Cộng sản nắm chính quyền.

Công trình chính

Bồng hộ thủ quyển
  • Cận tư lục
  • Tứ thư chương cú tập chú
  • Thi tập chú
  • Thông giám cương mục
  • Tống danh thần ngôn hành lục
  • Sở từ tập chú
  • Dịch học khởi mông

Ảnh hưởng

Lý học Chu Hi có ảnh hưởng lớn về sau ở Trung Quốc và trở thành tông phái chính của Nho học thời Minh – Thanh. Học thuyết của Chu Hi cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước khác ở Á Đông. Ở Việt Nam, thế kỉ XVI – XVIII, các nội dung lí học của Chu Hi thường được nhắc tới. Ở Nhật Bản, vào thời Đức Xuyên (1603 – 1867) việc nghiên cứu Chu Tử (Chu Tử học) rất thịnh hành.

Tôn giáo

Chu Hi bắt đầu như một người theo học Phật giáo nhưng vì không thể chấp nhận ý tưởng về vô ngã – không có bản ngã cố định – nên ông hướng tới truyền thống Nho giáo và rồi trở thành người trình giải chính của Tống Nho.

Tên gọi

Trong cuộc đời của Chu Hi, ông đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm kinh điển, để lại nhiều giá trị cho đời sau. Đi kèm theo những tác phẩm đó là những tên chữ, tên hiệu, bút danh, và những danh xưng khác của ông. Khi còn nhỏ, ông có tiểu danh[n] là Trầm Lang (沈郎)[94] và tiểu tự là Quý Duyên (季延).[o][96] Đến tuổi trưởng thành, người thầy Lưu Tử Huy đã làm lễ thành nhân cho Chu Hi và chính thức đặt tên tự cho ông là Nguyên Hối (元晦).[97][96] Hầu hết các sử liệu đều ghi chép, tên tự của Chu Hi vốn là Nguyên Hối, sau đổi thành Trọng Hối (仲晦).[98][99] Trên thực tế, cả đời Chu Hi đều tự xưng là "Trọng Hối",[100] còn tên chữ "Nguyên Hối" là cách người khác gọi ông. Chỉ có một lần đặc biệt là khi Chu Hi nhắc đến tên Nguyên Hối này vốn do "Lưu Tiên sinh" đặt cho mình.[101]

Mẹ của Chu Hi là người huyện Hấp, Chu Tùng cũng từng đọc sách tại Lão Tử từ ở núi Tử Dương, thành nam của huyện Hấp. Vì vậy sau khi quay về Phúc Kiến, Chu Tùng thường dùng "Tử Dương thư đường" (紫阳书堂) khi ký tên, lại đặt tên "Tử Dương" cho nhà mới. Chịu sự ảnh hưởng từ cha, Chu Hi cũng đặt tên cho thư phòng của mình là "Tử Dương thư phòng" (紫阳书房), theo đó mà học giả thường gọi ông là "Tử Dương tiên sinh", gọi học phái của ông là "Tử Dương học phái".[102]

Gia đình

  • Cha: Chu Tùng (朱松; 1097 – 1143), tự Kiều Niên (乔年), hiệu Vi Trai (韦斋), đỗ Tiến sĩ năm 1118,[29] làm quan đến Viên ngoại lang của Bộ Lại.
  • Đích thê: Lưu Thanh Tứ (nhũ danh Tứ Nương), trưởng nữ của Lưu Miễn Chi, sau khi qua đời được truy phong Thạc nhân (硕人).[103][104] Bà gả cho Chu Hi năm 16 tuổi và sinh cho ông tất cả 8 người con, 3 nam, 5 nữ. Năm Thuần Hi thứ 3 (1176) triều Tống Hiếu Tông, bà qua đời khi chỉ 44 tuổi. Đến tháng 2 năm sau, bà được an táng tại thôn Sùng Chính, huyện Kiến Dương.[105]
  • Con trai:[106]
    1. Chu Thục (朱塾; 1153 – 1191), tự Thụ Chi (受之), từ nhỏ thông minh, rất được Chu Hi thương yêu, nhưng vì tính tình lười nhác mà Chu Hi đã gửi ông đến nhà Lữ Tổ Khiêm (呂祖謙) để học tập,[106] làm quan đến Tổng lĩnh Hồ Nam.[107] Về sau, Chu Thục cưới trưởng nữ của Phan Cảnh Hiến (潘景宪),[p][110] có hai người con trai là Chu Trấn (朱镇), Chu Giam (朱监) và một người con gái gả cho Tông thất nhà Tống là Triệu Sư Hạ (赵师夏).[q][111] Chu Trấn cưới con gái Tống Lý Tông, sinh được Chu Lâm và Chu Bân. Chu Giam cưới con gái của Hoàng Phủ, cháu nội của Hoàng Triệt, cháu ngoại của Trần Lương Hãn.
    2. Chu Chỉnh (朱整; 1154 – 1210), tự Văn Chi (文之), từng có một thời gian thay anh trai quản lý việc trong nhà, coi sóc việc in ấn sách của nhà họ Chu, về sau cưới con gái của Lưu Phục (刘复).[107]
    3. Chu Tại (朱在; 1161 – 1239), tự Kính Chi (敬之), cưới em gái của Lữ Tổ Khiêm.[106]
  • Con gái:
    1. Chu Tốn (朱巽), gả cho cháu trai của Lưu Tử Huy, cháu ngoại của Phạm Như Khuê (范如圭), sinh một người con trai là Lưu Dịch.
    2. Chu Đoái (朱兑), gả cho Hoàng Kiền (黄干), một trong Tứ đại truyền nhân của Chu Môn.
    3. Chu Tị (朱巳), từ nhỏ thông minh, giỏi thư pháp và âm luật, vốn hứa gả cho Triệu Sư Uyên (赵师渊), em trai Triệu Sư Hạ, nhưng chỉ mới 15 tuổi đã qua đời, được chôn cất bên cạnh mộ mẹ.
    4. Chu Quý (朱癸), gả cho Phạm Nguyên Dụ (范元裕), con trai một học trò của Chu Hi là Phạm Niệm Đức (范念德).
    5. Con gái út chết yểu.

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Trai hiệu, còn xưng là trai danh, thất danh, am hiệu, thường là tên thư phòng của văn nhân nhã sĩ thời xưa, cho thấy gia thế, thân thế, trình độ và cả ước nguyện của chủ nhân.
  2. ^ Sách để bình phẩm, bình luận về một người hay một chủ thể nào đó.
  3. ^ Chu Khôi (朱瓌) hay Chu Côi (朱瑰) là Phủ quân của Vụ Nguyên Trà viện (婺源茶院) vào thời Ngũ đại Thập quốc
  4. ^ Trong quyển 1 "Chi phái nguyên lưu" của "Chu Tử văn tập đại toàn loại biên" có ghi chép: "一世茶院公諱瓌,字古僚,號舜臣,其先吳郡人。唐廣明間,黃巢作亂,避地歙之黃墩。天中佑中,以刺史陶雅命,總卒三千,戍婺源而督其征賦,巡轄浮梁、德、興、祁門四縣,民賴以安,因家婺源,是為婺源朱氏始祖。"
    Lược dịch: Công của Nhất Thế Trà viện húy Khôi, tự Cổ Liêu, hiệu Thuấn Thần, trước là người quận Ngô; gặp loạn Hoàng Sào, lánh đi. Sau lấy thân phận Thứ sử, cùng 3000 quân đóng giữ Vụ Nguyên, giám sát tô thuế, tuần tra bốn huyện Phù Lương, Đức, Hưng, Kỳ Môn, yên lòng dân. Vì nhà ở Vụ Nguyên, trở thành thủy tổ của Vụ Nguyên Chu thị.
  5. ^ Một trấn thuộc huyện Vụ Nguyên
  6. ^ Họ Chu ở Phượng Dương hay Phượng Dương Chu thị (tiếng Trung: 鳳陽朱氏 chính là Hoàng tộc nhà Minh
  7. ^ Châu Nam Kiếm (南剑州) là một châu thời Tống, đến đầu thời Nguyên thì đổi tên thành lộ Duyên Bình (延平路). Ngày nay, địa giới Nam Kiếm cũ bao gồm các huyện Tương Lạc, Thuận Xương, Sa Huyện, Vưu Khê và thành phố Tam Minh.
  8. ^ Lưu Tử Vũ (tiếng Trung: 刘子羽; 1086 – 1186) là một quan viên, tướng lĩnh vào đầu thời kỳ Nam Tống. Ông nhiều lần theo cha là Tư Chính điện Đại học sĩ Lưu Cáp xuất chinh, sau nổi danh nhờ công trạng trong công cuộc chống lại quân Kim.
  9. ^ Vào thời Nam Tống, công việc của Chủ bộ là quản lý việc xuất nạp của đồ của công, phụ trách ghi chép sổ sách; lại hỗ trợ Huyện lệnh quản lý các công việc liên quan đến giấy tờ sổ sách, phú thuế, giáo dục,...
  10. ^ Chiếu thư thỉnh cầu lời nói thẳng.
  11. ^ Kiến Châu (建州) là một châu được thiết vào thời nhà Đường. Về sau, nhà Tống cũng kế thừa đơn vị hành chính này nhưng có sự thay đổi về ranh giới. Ngày nay, địa giới Kiến Châu cũ nằm ở phía bắc tỉnh Phúc Kiến, xung quanh thành phố Kiến Âu.[41]
  12. ^ Đãi chế (待制) là một chức quan được lập ra vào thời nhà Đường (618–907) và tiếp tục được áp dụng dưới triều nhà Tống (960–1279), thuộc sự quản lý của Hàn lâm viện, chịu trách nhiệm ghi chép cho Hoàng đế.
  13. ^ Chân Đức Tú (真德秀) và Ngụy Liễu Ông (魏了翁) là hai người có tư tưởng triết lý cực kỳ tương đồng và là truyền nhân Lý học chính thống của Chu Hi.[86]
  14. ^ Tiểu danh (小名) hay Nhũ danh (乳名) thường dùng với ý nghĩa là tên mụ, tên húy, tên lúc nhỏ khi chưa được đặt tên chính thức. Một cách tương đối, "tiểu danh" đối ứng với "đại danh" (大名) trong xã hội cũ có cách sử dụng tương tự với "tên ở nhà" (hoặc tên cúng cơm) và "tên chính thức" trong xã hội hiện nay.
  15. ^ Quý () vốn lấy từ "quý tử", chỉ người con trai út; Duyên () lại lấy từ Duyên Bình (延平), một cách gọi khác của "Nam Kiếm" (南剑). Vưu Khê, nơi Chu Hi sinh ra, vốn thuộc Nam Kiếm.[95]
  16. ^ Phan Cảnh Hiến là một trong những đệ tử của Lữ Tổ Khiêm.[108] Ngoài ra, em trai Hiến là Phan Cảnh Lương (潘景良) là chồng của Lữ Hoa Niên (吕华年) – con gái của Lữ Tổ Khiêm.[109]
  17. ^ Triệu Sư Hạ là hậu duệ của Yến vương Triệu Đức Chiêu

Tham khảo

  1. ^ a b Ebrey (1993), tr. 172.
  2. ^ Trần & Dư (2002), tr. 189.
  3. ^ Ebrey (1999), tr. 153.
  4. ^ de Bary (2008), tr. 216.
  5. ^ Khổng Tử (2006), tr. 148–91.
  6. ^ Triệu (1985), tr. 283.
  7. ^ Lâm & Khương (2013), tr. 431.
  8. ^ Trần (1985), tr. 1450.
  9. ^ Ivanhoe (2019), tr. 2.
  10. ^ Mạc (2000), tr. 11.
  11. ^ Chu (2005), tr. 35.
  12. ^ Lưu (2000).
  13. ^ Brown (2017), tr. 733.
  14. ^ Höchsmann (2004), tr. 149.
  15. ^ Ng (2020), tr. 17.
  16. ^ Thompson, Kirill (2017). Zalta, Edward N. (biên tập). The Stanford Encyclopedia of Philosophy . Metaphysics Research Lab, Stanford University.
  17. ^ Thúc (1992), tr. 38.
  18. ^ a b Ng (2020), tr. 18.
  19. ^ Cao (1987), tr. 93.
  20. ^ Tống (2020).
  21. ^ Văn (2010).
  22. ^ Thúc (1992), tr. 39.
  23. ^ Trần (2000), tr. 31.
  24. ^ Hoàng (2015), tr. 54.
  25. ^ Vương Quân Lâm (1998), tr. 468.
  26. ^ Trần (2013).
  27. ^ Thúc (2008), tr. 43.
  28. ^ Lưu (1994), tr. 134.
  29. ^ a b Mote (2003), tr. 340.
  30. ^ Triệu (2012), tr. 6.
  31. ^ Triệu (2012), tr. 7.
  32. ^ Takanashi (2014), tr. 262.
  33. ^ Adler (2014), tr. 36.
  34. ^ Ng (2020), tr. 20.
  35. ^ Makeham (2018), tr. 148.
  36. ^ Trương (2020), tr. 320.
  37. ^ Trương (2013), tr. 763.
  38. ^ Lâm & Khương (2013), tr. 330.
  39. ^ Trương (2013), tr. 764.
  40. ^ a b Ng (2020), tr. 41.
  41. ^ Sử (2005), tr. 1710.
  42. ^ Vương (1998), tr. 25.
  43. ^ Hứa (2015), tr. 258.
  44. ^ Trương (2013), tr. 767.
  45. ^ Ng (2020), tr. 42.
  46. ^ Vương (1998), tr. 87.
  47. ^ Trương (2013), tr. 767–68.
  48. ^ Vương (1998), tr. 88.
  49. ^ Gardner (1990), tr. 3–6.
  50. ^ Vạn & Cao (2018), tr. 33.
  51. ^ de Bary, Gluck & Keene (2005), tr. 251.
  52. ^ de Bary (2008), tr. 465.
  53. ^ Mạnh (2003), tr. 285.
  54. ^ Hứa (2015), tr. 263.
  55. ^ Ivanhoe (2019), tr. 129.
  56. ^ Hứa (2015), tr. 264–67.
  57. ^ Thúc (1992), tr. 82.
  58. ^ Thúc (1992), tr. 825.
  59. ^ Mạnh (2003), tr. 291.
  60. ^ Trần (2006), tr. 126.
  61. ^ Lý (2001), tr. 170.
  62. ^ Thúc (1992), tr. 897.
  63. ^ Mote (2003), tr. 316.
  64. ^ Chu (2001), tr. 278.
  65. ^ Miêu (1992), tr. 423.
  66. ^ Xu, Haoran. “The Relationship Between Zhen Dexiu and Neo-Confucianism:under the Background of an Imperial Edict Drafter”. CNKI. Journal of Peking University (philosophy of Social Sciences). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2017.
  67. ^ Taylor & Choy (2005), tr. 53.
  68. ^ Rodzinski (2017), tr. 97.
  69. ^ Brown (2017), tr. 737.
  70. ^ Phùng (2016), tr. 183.
  71. ^ Weerdt (2020), tr. 203.
  72. ^ Levine (2008), tr. 167.
  73. ^ Ban biên tập (1989). “Phúc Kiến văn bác”. 1–2. Viện bảo tàng tỉnh Phúc Kiến: 148. OCLC 860897746. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  74. ^ Chan (1963), tr. 588.
  75. ^ a b Chan (1989), tr. 34.
  76. ^ Cao (1987), tr. 327.
  77. ^ Ngô (1988), tr. 250.
  78. ^ Mạnh (2003), tr. 101.
  79. ^ Mạnh (2003), tr. 392.
  80. ^ Trần (2006), tr. 316.
  81. ^ Lam & Lưu (2017), tr. 130.
  82. ^ Ng (2020), tr. 284.
  83. ^ Gardner (1990), tr. p.
  84. ^ Ebrey, Walthall & Palais 2006, tr. 169.
  85. ^ Weerdt (2020), tr. 216.
  86. ^ Lý (2019), tr. 200.
  87. ^ Kornicki (2018), tr. 249.
  88. ^ Birge (2002), tr. 183.
  89. ^ Đặng & Bành (2000), tr. 85.
  90. ^ Tiết (1995).
  91. ^ Tạ (2016), tr. 87.
  92. ^ Chu Tử ngữ loại, quyển 1
  93. ^ Chu Tử ngữ loại, quyển 17
  94. ^ Thúc (1992), tr. 33.
  95. ^ Cao (1987), tr. 318.
  96. ^ a b Trương (2013), tr. 11.
  97. ^ Vương (1998), tr. 5.
  98. ^ Lâm & Khương (2013), tr. 324.
  99. ^ Mạnh (2003), tr. 1.
  100. ^ Cao (1987), tr. 321.
  101. ^ Trần (2007), tr. 21.
  102. ^ Hoàng (2016), tr. 195.
  103. ^ Trâu (1993), tr. 271.
  104. ^ Thúc (1992), tr. 63.
  105. ^ Lưu (2011), tr. 301.
  106. ^ a b c Lưu (2011), tr. 302.
  107. ^ a b Lý & Tào (2004), tr. 29.
  108. ^ Thúc (1992), tr. 584.
  109. ^ Vương (2006), tr. 72.
  110. ^ Vương (2006), tr. 145.
  111. ^ Thúc (1992), tr. 324.

Nguồn

  • Adler, Joseph A. (2014). Reconstructing the Confucian Dao: Zhu Xi's Appropriation of Zhou Dunyi (bằng tiếng Anh). Suny Press. ISBN 9781438451589.
  • de Bary, William Theodore; Gluck, Carol; Keene, Donald (2005). Sources of Japanese Tradition: Volume 2, 1600 to 2000 [Nguồn gốc truyền thống Nhật Bản: Tập 2, 1600 đến 2000]. Columbia University Press. ISBN 9780231129848.
  • de Bary, William Theodore (2008). Sources of East Asian Tradition: Premodern Asia [Nguồn gốc truyền thống Đông Á: Châu Á tiền hiện đại] (bằng tiếng Anh). Columbia University Press. ISBN 9780231143059.
  • Birge, Bettine (ngày 7 tháng 1 năm 2002). Women, Property, and Confucian Reaction in Sung and Yüan China (960–1368). Cambridge University Press. ISBN 9781139431071.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  • Brown, Kerry (2017). Berkshire Dictionary of Chinese Biography [Từ điển Berkshire về tiểu sử người Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Berkshire Publishing Group. ISBN 9781933782614.
  • Cao, Lệnh Ấn (1987). 朱熹事迹考 [Nghiên cứu sự tích về Chu Hi] (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải. OCLC 885416840.
  • Chan, Wing-Tsit (1963). “The great synthesis in Chu Hsi”. A Source Book in Chinese Philosophy. Princeton: Princeton University Press. tr. 588–653. ISBN 9781400820030 – qua JSTOR.
  • Chan, Wing-Tsit (1989). Chu Hsi: New Studies [Chu Hi: Tân Học] (bằng tiếng Anh). University of Hawaii Press. ISBN 9780824812010.
  • Chu, Thụy Hi (2001). 疁城集 [Liêu thành tập] (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hoa Đông. ISBN 9787561724798.
  • Chu, Hiểu Quang (2005). 新安理学 [Lý học ở Tân An] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Nhân dân An Huy. ISBN 9787212025731.
  • Đặng, Hồng Ba; Bành, Ái Học (2000). 中国书院揽胜 [Tham quan những thư viện danh thắng ở Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Đại học Hồ Nam. ISBN 9787810532921.
  • Ebrey, Patricia Buckley (1993). Chinese civilization: a sourcebook [Nền văn minh Trung Quốc: một nguồn sách] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2). New York: The Free Press. ISBN 002908752X. OCLC 27226697.
  • Ebrey, Patricia Buckley (1999). The Cambridge Illustrated History of China [Minh họa lịch sử Trung Quốc của Cambridge] (bằng tiếng Anh). Kwang-ching Liu cộng tác. Cambridge University Press. ASIN B00501HCWS. ISBN 9780521669917.
  • Ebrey, Patricia Buckley; Walthall, Anne; Palais, James B. (2006). East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Boston: Houghton Mifflin. ISBN 9780618133840.
  • Gardner, Daniel K. (1990). Chu Hsi: Learning to Be A Sage [Chu Hi: Học để trở thành một hiền nhân] (bằng tiếng Anh). University of California Press. ISBN 9780520065253.
  • Hoàng, Tuệ Anh (2015). 青少年仁義禮智信釋讀:禮 [Khảo chứng và giải thích về Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín cho thanh thiếu niên: Lễ] (bằng tiếng Trung). Nguyên Hoa Văn Sang. ISBN 9789865650636.
  • Hoàng, Đài Dương (2016). 墨的故事‧輯一: 墨客列傳 [Chuyện xưa Mặc gia – Tập 1: Mặc khách liệt truyện] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Thời báo Văn hóa. ISBN 9789571366074.
  • Höchsmann, Hyun (2004). On Philosophy in China [Về triết học ở Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Wadsworth. ISBN 9780534609955.
  • Hứa, Bân (2015). 文學史摷微 [Văn học sử tiễu vi] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Tân Hoa. ISBN 9787516620366.
  • Ivanhoe, Philip J. (2019). Zhu Xi: Selected Writings [Chu Hi: Tác phẩm chọn lọc] (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 9780190861254.
  • Khổng Tử (2006). Slingerland, Edward (biên tập). The Essential Analects: Selected Passages with Traditional Commentary (bằng tiếng Anh). Hackett Publishing. ISBN 9780872207721.
  • Kornicki, Peter Francis (2018). Languages, scripts, and Chinese texts in East Asia [Ngôn ngữ, chữ viết và văn bản Trung Quốc ở Đông Á] (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 9780192518682.
  • Kuhn, Dieter (2011). The Age of Confucian Rule: The Song Transformation of China [Quy luật thời đại của Nho giáo: Sự chuyển đổi dưới thời Tống, Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Harvard University Press. ISBN 9780674244344.
  • Lâm, Khánh Chương; Khương, Quảng Huy (2013). 文革時期評朱熹 [Bình luận về Chu Hi thời kỳ cải cách văn hóa] (bằng tiếng Trung). Vạn quyển lâu. ISBN 9789577397744.
  • Lam, Hải Chính; Lưu, Thải Mai (2017). 中国教育史 [Lịch sử Giáo dục Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Thành Đô: Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Tài chính Tây Nam. ISBN 9787550421035.
  • Levine, Ari Daniel (2008). Divided by a Common Language: Factional Conflict in Late Northern Song China [Bị chia cắt bởi một ngôn ngữ chung: Xung đột phe phái ở Trung Quốc Hậu Bắc Tống] (bằng tiếng Anh). University of Hawaii Press. ISBN 9780824832667.
  • Lưu, Hữu Bình (1994). 中华姓氏通书: 朱姓 [Về các dòng họ Trung Hoa: Họ Chu] (bằng tiếng Trung). Trung tâm xuất bản Hải Nam quốc tế tân văn. ISBN 9787806090602.
  • Lưu, Hữu Bình (2000). 朱姓史话 [Bàn về lịch sử họ Chu] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tây. ISBN 9787210023210.
  • Lưu, Chiêu Nhân (2011). 螢雪齋文集 [Huỳnh Thuyết trai văn tập] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Tú Uy. ISBN 9789862218839.
  • Lý, Chi Lượng (2001). 宋福建路郡守年表 [Niên biểu Quận thủ lộ Phúc Kiến thời Tống]. 3. Ba Thục thư xã. ISBN 9787806591871.
  • Lý, Tài Đống; Tào, Đào (2004). 中國文化世家: 江右卷 [Thế gia văn hóa Trung Quốc: Giang Hữu] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Giáo dục Hồ Bắc. ISBN 9787535138217.
  • Lý, Cương Hưng (2019). 兩宋大儒評介 [Bình luận và giới thiệu về Đại Nho thời Tống] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Tung Bác. ISBN 9789577358257.
  • Mạc, Lệ Phong (2000). 朱熹文学硏究 [Nghiên cứu văn học Chu Hi] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Đại học Nam Kinh. ISBN 9787305035708.
  • Makeham, John (2018). The Buddhist Roots of Zhu Xi's Philosophical Thought [Nguồn gốc Phật giáo trong Tư tưởng Triết học của Chu Hi] (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 9780190878566.
  • Mạnh, Thục Tuệ (2003). 朱熹及其門人的教化理念與實踐 [Giáo hóa lý niệm của Chu Hi cùng các môn sinh và thực tiễn] (bằng tiếng Trung). Trung tâm xuất bản Đại học Quốc lập Đài Loan. ISBN 9788010200542.
  • Miêu, Xuân Đức (1992). 宋代教育 [Giáo dục thời Tống] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Đại học Hà Nam. ISBN 9787810187275.
  • Mote, Frederick W. (2003). “Chinese civilization and the Song achievement” [Nền văn minh Trung Hoa và thành tựu thời Tống]. Imperial China, 900–1800 [Đế quốc Trung Quốc, 900–1800] (bằng tiếng Anh) . Harvard University Press. ISBN 9780674012127.
  • Ng, Kai-chiu (2020). Huang, Yong (biên tập). Dao Companion to ZHU Xi’s Philosophy. Dao Companions to Chinese Philosophy (bằng tiếng Anh). Springer Nature. ISBN 9783030291754.
  • Ngô, Nãi Cung (1988). 儒家思想研究 [Nghiên cứu tư tưởng Nho gia] (bằng tiếng Trung). Cát Lâm: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Đông Bắc. ISBN 9787560201689.
  • Phùng, Mẫn Phi (2016). 危世圖存: 中國歷史上的15次中興 [Nguy thế đồ tồn: 15 lần trung hưng trong lịch sử Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Tân Hoa. ISBN 9787516627617.
  • Rodzinski, Witold (2017). A History of China [Lịch sử Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Pergamon Press. ISBN 9780230208155.[liên kết hỏng]
  • Sử, Vi Nhạc (2005). Đặng Tự Lân; Chu Linh Linh (biên tập). 中国历史地名大辞典 [Đại từ điển lịch sử địa danh Trung Quốc, tập 2]. 2. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Trung Quốc. ISBN 9787500449294.
  • Tạ, Tuyển Tuấn (2016). 立宪君主与衍圣公 – Constitutional Monarchy and the Descendant of Confucianism [Quân chủ lập hiến và Diễn Thánh công]. Tạ Tuyển Tuấn toàn tập. 23. Lulu.com. ISBN 9781329911956.
  • Takanashi, Y. (2014). Emerson and Neo-Confucianism: Crossing Paths over the Pacific [Emerson và Tân Nho giáo: Những con đường băng qua Thái Bình Dương] (bằng tiếng Anh). Lawrence Buell cộng tác. Springer. ISBN 9781137395078.
  • Taylor, Rodney Leon; Choy, Howard Yuen Fung (tháng 1 năm 2005). The Illustrated Encyclopedia of Confucianism: A-M [Bách khoa toàn thư có minh họa về Nho giáo: A-M]. The Rosen Publishing Group. ISBN 9780823940806.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
  • Tiết, Chí Hưng (1995). 中國歷代書院志 [Ghi chép về thư viện qua các triều đại Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). 10. Giang Tô: Nhà xuất bản Giáo dục Giang Tô. ISBN 9787534323270.
  • Thúc, Cảnh Nam (1992). 朱子大传 [Chu Hi đại truyện] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Giáo dục Phúc Kiến. ISBN 9787533411121.
  • Thúc, Cảnh Nam (2008). 朱熹研究 [Nghiên cứu về Chu Hi] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Nhân dân. ISBN 9787010071718.
  • Tống, Xuân (2020). Howe, Richard (biên tập). 武夷山 Mount Wuyi [Núi Vũ Di] (bằng tiếng Anh). Phúc Kiến: Nhà xuất bản Nhân dân Phúc Kiến. ISBN 9787211083145.
  • Trần, Lai (2000). 朱子哲学硏究 [Nghiên cứu về triết học Chu Tử] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hoa Đông. ISBN 9787561723623.
  • Trần, Mộng Lôi (1985). 古今图书集成 [Cổ kim đồ thư tập thành] (bằng tiếng Trung). Tương Đình Tích hiệu đính. Nhà xuất bản Ba Thục - Trung Hoa thư cục. ISBN 9787805231679.
  • Trần, Phong Tường; Dư, Anh Thì (2002). 中國通史 [Trung Quốc thông sử]. Công ty xuất bản Thư viện Ngũ Nam. ISBN 9789571128818.
  • Trần, Văn Tân (2006). 中国文学编年史: 宋辽金卷 [Biên niên sử văn học Trung Quốc: (tập) Tống Liêu Kim] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Nhân dân Hồ Nam. ISBN 9787543845329.
  • Trần, Vinh Diệp (2007). 朱子新探索 [Nghiên cứu mới về Chu Hi]. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hoa Đông. ISBN 9787561751985.
  • Trần, Đại Tương (2013). 湖湘学案 [Hồ Tương học án] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Beijing Book Co. Inc. ISBN 9787999009542.
  • Trâu, Vĩnh Hiền (1993). 朱熹思想丛论 [Bàn về tư tưởng Chu Hi] (bằng tiếng Trung). Nhà xuất bản Đại học Hạ Môn. ISBN 9787561504970.
  • Triệu, Kỷ Bân (1985). 赵纪彬文集1 [Triệu Kỷ Bân văn tập] (bằng tiếng Trung). Hà Nam: Nhà xuất bản Nhân dân Hà Nam. OCLC 298840115.
  • Triệu, Chí Cường (2012). 朱熹 [Chu Hi] (bằng tiếng Trung). Beijing Book Co. Inc. ISBN 9787545111736.
  • Trương, Lập Văn (2013). 朱熹大辞典 [Đại từ điển về Chu Hi]. Thượng Hải: Nhà xuất bản Từ thư Thượng Hải. ISBN 9787532639069.
  • Trương, Lệ Châu (2020). 中國哲學史三十講 [30 bài giảng về lịch sử Triết học Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). Công ti xuất bản Thư viện Ngũ Nam. ISBN 9789577639455.
  • Văn, Quang Hoa (2010). 中国文化风采录·武夷山 [Ghi chép văn hóa phong thái Trung Quốc – Vũ Di Sơn] (bằng tiếng Trung). Bắc Kinh: Beijing Book Co. Inc. ISBN 9787999030614.
  • Vạn, Đức Kính; Cao, Thục Quân (2018). Hòa Đàm (biên tập). 尊师重教 [Tôn sư trọng đạo]. Beijing Book Co. Inc. ISBN 9787020137060.
  • Vương, Mậu Hồng (1998). 朱熹年譜 [Chu Hi niên phổ] (bằng tiếng Trung). Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101015768.
  • Vương Quân Lâm (1998). 中国儒学史: 宋元卷 [Lịch sử Nho học Trung Quốc: (tập) Tống Nguyên]. 中国儒学史 [Lịch sử Nho học Trung Quốc] (bằng tiếng Trung). 5. Nhà xuất bản Giáo dục Quảng Đông. ISBN 9787540639891.
  • Vương, Văn Chính (2006). 吕祖谦与浙东明招文化 [Lữ Tổ Khiêm và văn hóa Chiết Đông Minh Chiêu]. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Văn hiến. ISBN 9787802301962.
  • Weerdt, Hilde De (2020). Competition over Content: Negotiating Standards for the Civil Service Examinations in Imperial China (1127–1279). Brill. ISBN 9781684174584.

Xem thêm

Liên kết ngoài

  • x
  • t
  • s
Trường phái

Xem thêm: Bách Gia Chư Tử

Triết gia
Khái niệm
Chủ đề
  • x
  • t
  • s
Chủ đề nhà Tống
Lịch sử (Dòng thời gian)
Painting by Song painter Ma Lin
Chính quyền
Tam tỉnh
Lục bộ
Văn hóa
  • Xã hội
  • Thơ
  • Ngũ đại danh diêu
    • Định từ
    • Ca từ
    • Quan từ
    • Quân từ
    • Nhữ từ
  • Long Tuyền thanh từ
  • Từ Châu diêu
  • Thanh bạch
  • Diệu Châu diêu
  • Tượng Bồ Tát Chính Định
  • Thanh minh thượng hà đồ
Nhà văn
Họa sĩ
  • Phạm Khoan (960–1030)
  • Hứa Đạo Ninh (970–1053)
  • Triệu Xương (thế kỷ thứ 10)
  • Dịch Nguyên Cát (1000–1064)
  • Văn Đồng (1019–1079)
  • Quách Hi (1020–1090)
  • Vương Sân (1036–1093)
  • Lý Công Lân (1049–1106)
  • Thôi Bạch (nổi danh 1050–1080)
  • Mễ Phất (1051–1107)
  • Huy Tông (1082–1135)
  • Trương Trạch Đoan (1085–1145)
  • Vương Hy Mạnh (1096–1119)
  • Lý Địch (1100–1197)
  • Triệu Bá Câu (1120–1182)
  • Lương Khải (1140–1210)
  • Lâm Đình Khuê (fl. 1174–1189)
  • Chu Quý Thường (thế kỷ 12)
  • Vô Chuẩn Sư Phạm (1178–1249)
  • Triệu Mạnh Kiên (1199–1295)
  • Mục Khê (1210–1269)
  • Cung Khai (1222–1307)
  • Tiền Tuyển (1235–1305)
Kinh tế
Khoa học và công nghệ
  • Thuốc súng
    • Vũ khí thuốc súng
    • Vũ kinh tổng yếu
  • Than cốc
  • Quy trình thép Bessemer
  • Xích truyền động
  • Đồng hồ thiên văn
  • Chữ động
  • La bàn
  • Âu tàu
  • Xưởng tàu cạn
  • Vách ngăn kín nước
  • Kiến trúc
    • Liệu Địch Tháp
    • Dinh tạo pháp thức
Nhà phát minh
  • Cổng thông tin Trung Quốc
  • Cổng thông tin Lịch sử
  • Cổng thông tin Tiểu sử
  • Cổng thông tin Triết học
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BIBSYS: 90081411
  • BNE: XX974290
  • BNF: cb11929676b (data)
  • CiNii: DA00486106
  • GND: 118817620
  • ICCU: Italy
  • ISNI: 0000 0001 2130 9654
  • LCCN: n81008179
  • LNB: 000222372
  • NBL: 002186231
  • NDL: 00312779
  • NKC: jn20031021030
  • NLA: 36730719
  • NLK: KAC199632197
  • NLP: a0000001963498
  • NSK: 000588623
  • NTA: 140664076
  • PLWABN: 9810556117505606
  • RERO: 02-A000182254
  • SELIBR: 181691
  • SNAC: w6pv924p
  • SUDOC: 027203786
  • Trove: 1438580
  • VcBA: 495/12587
  • VIAF: 46768804
  • WorldCat Identities: lccn-n81008179