Bắc Borneo

Bắc Borneo
Tên bản ngữ
  • Borneo Utara
1882/1888–1941
1945–1946
Quốc kỳ Bắc Borneo
Quốc kỳ
Badge Bắc Borneo
Badge

Tiêu ngữtiếng Latinh: Pergo et Perago[1]
(I persevere and I achieve)[1]

Biên giới Bắc Borneo, 1903.
Biên giới Bắc Borneo, 1903.
Tổng quan
Vị thếLãnh thổ bảo hộ của Anh
Thủ đôKudat (1881–1884);
Sandakan (1884–1945);
Jesselton (1946)
Ngôn ngữ thông dụngAnh, Kadazan-Dusun, Bajau, Murut, Mã Lai Sabah, Hoa, vv..
Chính trị
Chính phủCông ty đặc hứa, lãnh thổ bảo hộ
Thống đốc 
• 1881–1887
William Hood Treacher]] (đầu tiên)
• 1937–1946
Charles Robert Smith (last)
Lịch sử
Thời kỳchủ nghĩa đế quốc mới
• North Borneo Provisional Association Ltd
26 tháng 8 1881
• Được cấp hiến chương hoàng gia royal charter
1 tháng 11 năm 1881
tháng 5 năm 1882
• Lãnh thổ bảo hộ
12 tháng 5 năm 1888
• Nhật Bản xâm chiếm
17 tháng 12 năm 1941
• Đồng Minh giải phóng
10 tháng 6 năm 1945
• Nhượng thành một thuộc địa hoàng gia
15 tháng 7 1946
Địa lý
Diện tích 
• 1945
76.115 km2
(29.388 mi2)
Dân số 
• 1881
60000
• 1920
200000
• 1930
257804
• 1935
285000
• 1945
331000
Kinh tế
Đơn vị tiền tệdollar Bắc Borneo
Tiền thân
Kế tục
Đế quốc Brunei
Vương quốc Hồi giáo Sulu
Vương quốc Hồi giáo Bulungan
Thuộc địa Hoàng gia Labuan
Nhật Bản chiếm đóng Borneo thuộc Anh
Chính quyền quân sự Anh (Borneo)
Thuộc địa Hoàng gia Bắc Borneo
Hiện nay là một phần của Malaysia
Bài này nằm trong loạt bài về
Lịch sử Brunei
Thời kỳ đầu
Đế quốc Brunei
Thế kỷ VII
đến 1888
Nhà Bolkiah
(Thế kỷ XV – hiện tại)
Hồi quốc Sulu
1405
đến 1915
Maynila
1500s
đến 1571
Vương quốc Tondo
1500s
đến 1571
Chiến tranh Castilian 1578
Nội chiến Brunei 1660–1673
Sarawak
Thế kỷ XV
đến 1841
Labuan
Thế kỷ XV
đến 1846
Bắc Borneo
Thế kỷ XV
đến 1865
Sự can thiệp của người Anh 1888–1984
Chiến dịch Đông Ấn thuộc Hà Lan 1942–1945
Chiến dịch Borneo 1945
1945–1946
Cuộc bạo động Brunei 1962
  • x
  • t
  • s

Bắc Borneo (tiếng Anh: North Borneo) là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc gia BruneiSulu vào năm 1877 và 1878 cho một nhân vật đại diện của Áo-Hung tên là Gustav Overbeck. Overbeck sau đó chuyển giao toàn bộ quyền lợi của mình cho Alfred Dent trước khi rút lui vào năm 1879. Năm 1881, Dent thành lập Hiệp hội hữu hạn lâm thời Bắc Borneo nhằm quản lý lãnh thổ, thể chế này được nhận hiến chương hoàng gia của Anh trong cùng năm. Đến năm sau, hiệp hội này bị thay thế bằng Công ty Đặc hứa Bắc Borneo. Tình hình khiến cho các nhà chức trách Đông Ấn Tây Ban NhaĐông Ấn Hà Lan lo lắng, kết quả là Tây Ban Nha bắt đầu yêu sách tại miền bắc của Borneo. Nghị định thư Madrid được ký kết vào năm 1885 công nhận sự hiện diện của Tây Ban Nha tại Philippines, đổi lại là ảnh hưởng của quốc gia này nằm ngoài miền bắc Borneo. Nhằm tránh có thêm yêu sách từ các quốc gia châu Âu khác, Bắc Borneo trở thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh vào năm 1888.

Bắc Borneo sản xuất gỗ để phục vụ cho xuất khẩu; cùng với nông nghiệp thì ngành này duy trì là nguồn kinh tế chủ yếu của người Anh tại Borneo. Do dân cư quá ít nên không đáp ứng hiệu quả phát triển kinh tế, người Anh bảo trợ nhiều kế hoạch để lao công người Hoa nhập cư từ Hồng Kông và Trung Quốc đến làm việc trong các đồn điền của người châu Âu, và đưa di dân Nhật Bản đến tham gia các hoạt động kinh tế. Chính quyền bảo hộ kết thúc khi quân đội của Nhật Bản xâm chiếm Bắc Borneo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh thì lãnh thổ nằm dưới quyền một chính phủ quân sự và tiếp đó trở thành một thuộc địa hoàng gia của Anh.

Lịch sử

Hình thành và những năm đầu

Alfred Dent là người thành lập thực thể tiền thân của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo.

Bắc Borneo được hình thành vào năm 1877–1878 thông qua một loạt vụ cắt nhượng lãnh thổ tại miền bắc đảo Borneo từ Vương quốc Hồi giáo BruneiVương quốc Hồi giáo Sulu cho một doanh nhân và nhà ngoại giao người Áo gốc Đức là Gustav Overbeck.[2][3][4] Một lãnh thổ cũ của Công ty Mậu dịch Hoa Kỳ Borneo tại bờ biển phía tây của miền bắc Borneo đã được chuyển giao cho Overbeck trước đó,[5] khiến ông phải đến Brunei nhằm hợp pháp hóa nhượng địa mà ông mua từ Joseph William Torrey.[6][7][8] William Clark Cowie giữ một vai trò quan trọng do là một người bạn thân thiết của Vương quốc Hồi giáo Sulu, nhân vật này giúp Overbeck mua thêm lãnh thổ tại bờ biển phía đông của Borneo.[9][10][11] Trong khi đó, dù ảnh hưởng của Vương quốc Hồi giáo Bulungan cũng vươn đến Tawau trên bờ biển phía đông,[12] song Sulu chiếm ưu thế hơn.[13]

Sau thành công trong việc mua được mảnh đất lớn tại cả phần phía tây và phía đông của miền bắc Borneo, Overbeck đến châu Âu để xúc tiến lãnh thổ này tại Áo-Hung và Ý cũng như tại quê nhà là Đức, song không quốc gia nào tỏ ý thực sự quan tâm.[5][14] Anh là quốc gia duy nhất hồi đáp, họ vốn đã tìm cách kiểm soát các tuyến mậu dịch tại Viễn Đông từ thế kỷ 18.[15][16][17] Mối quan tâm của người Anh được củng cố do họ hiện diện tại Labuan từ năm 1846.[18][19][20] Do đó, Overbeck nhận được khoản hỗ trợ tài chính từ anh em Dent từ Anh (Alfred Dent và Edward Dent) và hỗ trợ ngoại giao và quân sự từ chính phủ Anh.[4][16][21] Sau khi có được ủng hộ từ phía Anh, một điều khoản được đưa vào các hiệp ước, theo đó các lãnh thổ bị cắt nhượng sẽ không được trao cho bên khác mà không có phê chuẩn của chính phủ Anh.[2]

Biến đổi lãnh thổ của Bắc Borneo từ năm 1500 đến năm 1905.
  Brunei
  Sulu
  Bulungan
  Bắc Borneo thuộc Anh

Do không thể thu hút quan tâm từ các chính phủ Áo và Đức, Overbeck rút lui vào năm 1879; toàn bộ các quyền lợi hiệp ước của ông với các vương quốc Hồi giáo được chuyển sang cho Alfred Dent, người này vào năm 1881 lập ra Hiệp hội hữu hạn lâm thời Bắc Borneo cùng sự ủng hộ từ người đồng hương Rutherford Alcock, Đô đốc Henry Keppel, Richard Biddulph Martin, Đô đốc Richard Mayne và William Henry Read.[22][23][24] Hiệp hội lâm thời sau đó xin Nữ hoàng Victoria một hiến chương hoàng gia, và được cấp vào ngày 1 tháng 11 năm 1881.[5][25][26] William Hood Treacher được bổ nhiệm làm thống đốc đầu tiên,[27]Kudat tại mũi phía bắc của Borneo được chọn làm thủ phủ hành chính của Hiệp hội lâm thời.[28][29] Việc cấp hiến chương hoàng gia cho hiệp hội khiến người Hà Lan và người Tây Ban Nha lo ngại, họ sợ rằng người Anh có thể đe dọa đến vị thế các thuộc địa của họ.[30]

Vào tháng 5 năm 1882, Hiệp hội lâm thời bị thay thế bằng Công ty Đặc hứa Bắc Borneo mới thành lập, Alcock giữ vai trò là chủ tịch đầu tiên và Dent trở thành giám đốc điều hành của công ty.[31] Chính quyền này không được nhìn nhận là một lãnh thổ mà Anh giành được, thay vào đó chỉ là một doanh nghiệp tư nhân có hướng dẫn của chính phủ nhằm bảo vệ lãnh thổ khỏi bị các quốc gia châu Âu khác xâm phạm.[32] Dưới thời Thống đốc Treacher, công ty giành được thêm lãnh thổ trên bờ biển phía tây từ Vương quốc Hồi giáo Brunei.[33] Công ty sau đó thu được thêm chủ quyền và quyền lợi lãnh thổ từ sultan của Brunei, bành trướng lãnh thổ đến sông Putatan (tháng 5 năm 1884), huyện Padas (tháng 11 năm 1884), sông Kawang (tháng 2 năm 1885), quần đảo Mantanani (tháng 4 năm 1885) và thêm các lãnh thổ nhỏ tại Padas (tháng 3 năm 1898).[note 1]

Vào giai đoạn đầu của chính quyền, tồn tại một yêu sách tại miền bắc Borneo từ nhà cầm quyền Tây Ban Nha tại Philippines, có một nỗ lực nhằm dựng quốc kỳ Tây Ban Nha tại Sandakan song bị một chiến hạm của Anh cản trở.[17] Nhằm ngăn chặn xung đột hơn nữa và kết thúc yêu sách của Tây Ban Nha đối với miền bắc Borneo, một thỏa thuận được gọi là Nghị định thư Madrid được ký kết tại Madrid giữa Anh, Đức và Tây Ban Nha và năm 1885, theo đó công nhận sự hiện diện của Tây Ban Nha tại quần đảo Philippines.[26][34] Do công ty không muốn can dự vào các vấn đề ngoại giao nhiều hơn nữa,[30] Bắc Borneo được chuyển thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh vào ngày 12 tháng 5 năm 1888.[35][36] Năm 1890, Labuan được sáp nhập vào chính quyền của Bắc Borneo, song được trao lại cho chính phủ Anh cai trị vào năm 1904.[37] Cư dân địa phương tiến hành một số cuộc khởi nghĩa, từ năm 1894 đến năm 1900 dưới quyền lãnh đạo của Mat Salleh và dưới quyền lãnh đạo của Antanum vào năm 1915.[38] Chiến tranh thế giới thứ nhất không có tác động lớn đến lãnh thổ, song ngành gỗ phát triển trong giai đoạn giữa hai thế chiến.[39]

Chiến tranh thế giới thứ hai và suy thoái

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Bắc Borneo bị quân Nhật áp đảo vào ngày 17 tháng 12 năm 1941.[40] Đến ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hải quân Nhật Bản đổ bộ tại Labuan mà không có kháng cự.[41] Từ ngày 7 tháng 1, binh sĩ Nhật Bản tại Sarawak vượt biên sang Borneo thuộc Hà Lan và bắt đầu đến Jesselton. Một lực lượng lục quân hùng mạnh của Nhật Bản đến từ Mindanao và bắt đầu đổ bộ tại đảo Tarakan trước khi tiến đến Sandakan vào ngày 17 tháng 1.[41] Quân Nhật tiến đến mà không gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ nào do lãnh thổ bảo hộ này chủ yếu dựa vào Hải quân Anh để phòng thủ. Mặc dù Bắc Borneo có một lực lượng cảnh sát, song họ chưa từng có lục quân hoặc hải quân riêng.[42] Đến cuối tháng 1, Bắc Borneo hoàn toàn bị quân Nhật chiếm đóng.[43] Lãnh thổ được quản lý như là một bộ phận của Đế quốc Nhật Bản, các viên chức của công ty đặc hứa được phép tiếp tục quản lý dưới sự giám sát của người Nhật.[44]

Binh sĩ Nhật Bản bị giải giáp đang hành quân đến một khu tù binh chiến tranh tại Jesselton sau khi họ đầu hàng.

Việc quân Nhật tiến đến Borneo và liên minh Anh-Nhật sụp đổ đã được dự đoán, các điện báo mật cho thấy các tàu Nhật Bản đậu thường xuyên tại Jesselton tiến hành hoạt động gián điệp.[45] Nhiều binh sĩ Anh và Úc bị bắt sau khi MalayaSingapore thất thủ đã bị đưa đến Bắc Borneo và trở thành tù binh chiến tranh tại trại giam Sandakan, sau đó họ bị buộc phải đi bộ từ Sandakan đến Ranau.[46][47] Cuộc chiếm đóng khiến cư dân tại các khu vực duyên hải phải vào nội lục nhằm tìm thức ăn và chạy trốn hành động tàn ác trong thời chiến,[48] dẫn đến hình thành một số phong trào kháng chiến; một trong số đó là quân du kích Kinabalu do Albert Kwok lãnh đạo và được các nhóm bản địa ủng hộ.[49][50]

Lực lượng Đồng Minh được triển khai đến Borneo trong chiến dịch Borneo nhằm giải phóng đảo. Lực lượng Đế quốc Úc (AIF) giữ vai trò đáng kể trong sứ mệnh này,[51] binh sĩ được phái đến các đảo Tarakan và Labuan để bó chặt phía đông và tây của Borneo.[52] Đơn vị đặc biệt Z của Đồng Minh cung cấp tình báo và thông tin khác từ phía Nhật Bản nhằm giúp tạo thuận lợi để AIF đổ bộ,[52] còn các tàu ngầm của Hoa Kỳ cũng được sử dụng để vận chuyển đặc công của Úc đến Borneo.[53] Hầu hết các đô thị lớn tại Bắc Borneo bị oanh tạc nghiêm trọng trong giai đoạn này.[54] Chiến tranh kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng và chính quyền Bắc Borneo được chính quyền quân sự Anh tiếp quản từ tháng 9.[55] Chính quyền chính thức của công ty trở lại cai quản lãnh thổ, song không thể tìm được vốn cho chi phí tái thiết sau chiến tranh, nên họ nhượng quyền cai trị lãnh thổ bảo hộ cho chính quyền thuộc địa hoàng gia vào ngày 15 tháng 7 năm 1946.[1][56][57]

Chính quyền

Bức ảnh từ năm 1899 của Tòa nhà chính quyền Anh tại Sandakan, thủ phủ của Bắc Borneo từ năm 1884–1945.

Hệ thống chính quyền của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo dựa trên cấu trúc chính quyền tiêu chuẩn của Đế quốc Anh, theo đó lãnh thổ được chia giữa các tòa thống sứ, và được chia tiếp thành các huyện. Ban đầu, Bắc Borneo chỉ có hai tòa thống sứ là East Coast (Bờ Đông) và West Coast (Bờ Tây), các tòa thống sứ lần lượt đặt tại SandakanJesselton. Mỗi phủ thống sứ được chia thành các tỉnh, về sau gọi là huyện, do công chức huyện điều hành. Đến năm 1922, có 5 phủ thống sứ nhằm phù hợp để phát triển các khu vực mới, chúng gồm có West Coast, Kudat, Tawau, Interior và East Coast. Các phủ thống sứ này được chia thành 17 huyện. Theo hệ thống này, các chức vụ đứng đầu thuộc về người Anh, còn các tù trưởng bản địa quản lý cư dân ở cấp cơ sở. Đây không phải là do người Anh muốn thi hành cai trị gián tiếp, mà là nhằm tạo thuận lợi cho các công chức huyện vốn không quen thuộc với phong tục và chính trị địa phương.

Chính quyền công ty lập ra nền tảng cho phát triển kinh tế tại Bắc Borneo bằng cách khôi phục hòa bình vì tại đây nạn cướp biển và xung đột bộ lạc vốn đã phát triển lan tràn. Chính quyền bãi bỏ chế độ nô lệ và lập các dịch vụ giao thông, y tế và giáo dục cho nhân dân, và cho phép các cộng đồng thổ dân tiếp tục phương cách sinh hoạt truyền thống của họ.[58] Lực lượng cảnh sát Bắc Borneo vào năm 1883 gồm có ba người Âu, 50 người Ấn (Sikh và Pashtun), 30 người Dayak, 50 người Somalia và 20 người Mã Lai.[59] Các cảnh sát viên được đào tạo tại trại huấn luyện trung bình ba ngày mỗi tuần.[60] Năm 1884 lực lượng này có tổng cộng 176 thành viên,[59] và tăng lên khoảng 510 trong vòng ba năm.[60] Do là lãnh thổ bảo hộ nên các quan hệ quốc tế nằm trong phạm vi của chính phủ Anh, còn nội vụ do Công ty Đặc hứa Bắc Borneo cai quản với tư cách một nhà nước độc lập.[61] Hiệp định được ký kết vào ngày 12 tháng 5 năm 1888 quy định:

Bắc Borneo, 1888.
Bắc Borneo, 1888.
Hiệp định giữa Chính phủ Anh và Công ty Bắc Borneo thuộc Anh về thành lập lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh. —Ký kết tại London, 12 tháng 5 năm 1888.[61]


I. Nhà nước Bắc Borneo bao gồm các lãnh thổ được quy định trong hiến chương hoàng gia đã nêu, và các lãnh thổ khác mà công ty đã thu được, hoặc có thể thu được trong tương lai, ‘theo các khoản trong Điều XV của hiến chương đã nêu.
Lãnh thổ được chia thành 9 tỉnh là:

Tỉnh Alcock;
Tỉnh Cunliffe;
Tỉnh Dent;
Tỉnh Dewhurst;
Tỉnh Elphinstone;
Tỉnh Keppel;
Tỉnh Martin;
Tỉnh Mayne;
Tỉnh Myburgh.

II. Nhà nước Bắc Borneo sẽ tiếp tục cai trị và quản lý của công ty với tư cách là một nhà nước độc lập, phù hợp với các khoản trong hiến chương đã nêu; dưới sự bảo hộ của Anh; song sự bảo hộ như vậy sẽ không trao quyền cho Chính phủ của Điện hạ được can thiệp vào quản lý nội bộ của Nhà nước ngoài quy định ở đây hoặc hiến chương của công ty.
III. Quan hệ giữa Nhà nước Bắc Borneo và toàn thể các nhà nước bên ngoài khác, bao gồm các nhà nước Brunei và Sarawak, sẽ do Chính phủ của Điện hạ thực hiện, hoặc phù hợp với chỉ đạo của họ; và nếu có bất kỳ khác biệt nào xuất hiện giữa Chính phủ Bắc Borneo và bất kỳ nhà nước nào khác, thì Công ty với tư cách là đại diện cho Nhà nước Bắc Borneo sẽ đồng ý tuân theo quyết định của Chính phủ của Điện hạ, và tiến hành tất cả những điều cần thiết để có hiệu lực.
IV. Chính phủ của Điện hạ sẽ có quyền lập viên chức lãnh sự của Anh tại bất kỳ nơi nào trên các lãnh thổ đã nêu, họ sẽ nhận được công nhận lãnh sự nhân danh Chính phủ Bắc Borneo. Họ sẽ được hưởng bất kỳ quyền lợi nào thường được trao cho các viên chức lãnh sự, và họ sẽ được cho quyền tre-o quốc kỳ Anh tại dinh thự và công sở của mình.
V. Các thần dân, hoạt động thương nghiệp, và tàu của Anh sẽ được hưởng cùng quyền lợi, đặc quyền và thuận lợi như thần dân, hoạt động thương nghiệp và tàu của quốc gia được ưu tiên nhất, cũng như bất kỳ quyền lợi, đặc quyền và thuận lợi nào khác mà thần dân, hoạt động thương nghiệp và tàu của Bắc Borneo có thể được hưởng.
VI. Không có việc Chính phủ Bắc Borneo cắt nhượng hoặc chuyển nhượng bất kỳ bộ phận lãnh thổ nào của Nhà nước Bắc Borneo cho bất kỳ nhà nước bên ngoài nào, hoặc thần dân hoặc công dân của họ, mà không có ưng thuận của Chính phủ của Điện hạ; song hạn chế này sẽ không áp dụng cho việc cấp hoặc thuê nhà đất thông thường cho các cá nhân tư nhân nhằm mục đích cư trú, nông nghiệp, thương nghiệp hoặc kinh doanh khác.

Kinh tế

Khánh thành tuyến đường sắt Bắc Borneo vào ngày 3 tháng 2 năm 1898 nhằm vận chuyển hàng hóa tại khu vực bờ tây.

Nhờ các hoạt động kinh tế được quy hoạch tốt, nhà chức trách Bắc Borneo bắt đầu khai hoang đất cho nông nghiệp, và quyền lợi đất đai của người bản địa bắt đầu được hình thành.[62][63] Tuy nhiên, chính phủ nhận thấy cư dân bản địa quá nhỏ và không phù hợp trong việc đáp ứng yêu cầu phát triển hiện đại, do đó họ bắt đầu bảo trợ nhiều kế hoạch di cư của lao công người Hoa từ Hồng Kông và Trung Quốc.[64][65] Năm 1882, nhà chức trách Bắc Borneo bổ nhiệm Walter Henry Medhurst làm ủy viên về vấn đề người Hoa nhập cư nhằm tạo lực lượng lao động để thu hút thêm doanh nhân đến đầu tư tại Bắc Borneo.[66] Các nỗ lực của Medhurst tốn kém và không thành công; tuy nhiên người Khách Gia dù không nằm trong kế hoạch song họ bắt đầu di cư đến Bắc Borneo rồi lập nên một cộng đồng nông nghiệp tại đây.[66]

Phố Bond tại Jesselton có các cửa hiệu của người Hoa, k. 1930.

Từ thế kỷ 18, cây thuốc lá trở thành ngành trồng trọt đứng đầu của Bắc Borneo.[67] Lịch sử ngành đốn gỗ tại Bắc Borneo có thể truy từ thập niên 1870.[68] Kể từ thập niên 1890, xuất khẩu gỗ cứng tăng lên,[69] khi quy mô đốn gỗ được mở rộng đặc biệt là vào giai đoạn giữa hai thế chiến.[39] Trong thập niên 1900, Bắc Borneo tham gia làn sóng cao su. Sự kiện hoàn thành tuyến đường sắt Bắc Borneo giúp chuyên chở tài nguyên đến một cảng lớn tại bờ tây. Đến năm 1915, khoảng 34.828 mẫu Anh (14.094 ha) đất, cộng thêm các tiểu chủ người Hoa và Bắc Borneo, đã trồng cây cao su.[66] Trong cùng năm, Thống đốc Bắc Borneo Aylmer Cavendish Pearson mời di dân người Nhật tham gia hoạt động kinh tế tại đây. Chính phủ Nhật Bản nhận được yêu cầu nhiệt tình và phái các nhà nghiên cứu đi khám phá các cơ hội kinh tế tiềm năng.[70] Trong giai đoạn đầu, chính quyền Nhật Bản khuyến khích các nông dân của họ đến Bắc Borneo để trồng lúa do Nhật Bản phụ thuộc vào nhập khẩu gạo. Do người Nhật tăng quan tâm về tính kinh tế, họ mua các đồn điền cao su do chính phủ Bắc Borneo sở hữu.[70] Đến năm 1937, Bắc Borneo xuất khẩu 178.000 mét khối gỗ, vượt qua Xiêm La.[69]

Đơn vị tiền tệ ban đầu của Bắc Borneo là dollar Mexico, tương đương 100 cent. Đồng tiền này sau đó được neo với dollar Eo biển và tỷ giá là 9 dollar Eo biển (tương đương 5 dollar Mỹ vào đương thời).[71] Các giấy bạc khác được phát hành trong suốt thời kỳ cai trị, trên tiền miêu tả núi Kinabalu hoặc huy hiệu của công ty.[72]

Xã hội

Các tem mẫu của Bắc Borneo năm 1911.

Năm 1881, có từ 60.000 đến 100.000 cư dân bản địa sống tại Bắc Borneo.[64] Cư dân ven biển chủ yếu là người Hồi giáo, còn thổ dân chủ yếu sống tại nội lục.[71] Kadazan-Dusun và Murut là nhóm bản địa lớn nhất tại vùng nội lục, còn người Bajau, Brunei, Illanun, Kedayan và Suluk chi phối tại các khu vực ven biển.[73] Sau nhiều kế hoạch nhập cư do người Anh khởi xướng, dân số tăng lên 200.000 người vào năm 1920,[74] 257.804 người vào năm 1930,[71] 285.000 người vào năm 1935,[60] và 331.000 người vào năm 1945.[75] Chính phủ của Bắc Borneo không chỉ tuyển lao công người Hoa mà còn nhận các di dân người Nhật đến để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực trong lĩnh vực kinh tế.[76]

Một đường điện báo chạy từ Labuan đến Sandakan được xây dựng vào năm 1894; tiếp xúc phát thanh giữa Sandakan và Jesselton bắt đầu vào năm 1914.[77] Đường sắt Bắc Borneo mở cửa cho công chúng vào ngày 1 tháng 8 năm 1914 và là hạ tầng chuyên chở chủ yếu đối với các cộng đồng bờ tây.[78] Dịch vụ bưu chính cũng hiện hữu khắp hệ thống chính quyền.[79]

Ghi chú

  1. ^ See Treaties and Engagements and Orders of Her Britannic Majesty in Council.

Chú thích

  1. ^ a b c Great Britain. Colonial Office 1956, tr. 6.
  2. ^ a b Pryer 2001, tr. 11.
  3. ^ Wright 1988, tr. 107.
  4. ^ a b Doolittle 2011, tr. 32.
  5. ^ a b c Ooi 2004, tr. 265.
  6. ^ Pryer 2001, tr. 10.
  7. ^ Wright 1988, tr. 143.
  8. ^ Saunders 2013, tr. 87.
  9. ^ Press 2017, tr. 61.
  10. ^ Great Britain. Colonial Office 1958, tr. 164.
  11. ^ Kratoska 2001, tr. 282.
  12. ^ Trost 1998, tr. 234.
  13. ^ Magenda 2010, tr. 42.
  14. ^ Press 2017, tr. 150.
  15. ^ Fry 2013, tr. 15.
  16. ^ a b Fitzgerald 2016, tr. 70.
  17. ^ a b Barbara Watson & Leonard Y 2016, tr. 193.
  18. ^ Hong Kong Daily Press Office 1912, tr. 1504.
  19. ^ Webster 1998, tr. 130.
  20. ^ McCord & Purdue 2007, tr. 220.
  21. ^ Webster 1998, tr. 200.
  22. ^ British North Borneo Chartered Company 1886, tr. 113.
  23. ^ Hilton & Tate 1966, tr. 82.
  24. ^ de Vienne 2015, tr. 85.
  25. ^ Doolittle 2011, tr. 173.
  26. ^ a b Olson 1991, tr. 92.
  27. ^ Tregonning 1965, tr. 13.
  28. ^ Great Britain. Colonial Office 1958, tr. 172.
  29. ^ Yong 1965, tr. 25.
  30. ^ a b Olson & Shadle 1996, tr. 192.
  31. ^ Welman 2017, tr. 163.
  32. ^ Pryer 2001, tr. 12.
  33. ^ Wright 1988, tr. 185.
  34. ^ Chamber's 1950, tr. 448.
  35. ^ Dahlhoff 2012, tr. 1133.
  36. ^ Panton 2015, tr. 90.
  37. ^ Olson & Shadle 1996, tr. 645.
  38. ^ Welman 2017, tr. 153.
  39. ^ a b Jones 2013, tr. 12.
  40. ^ Epstein 2016, tr. 90.
  41. ^ a b Rottman 2002, tr. 206.
  42. ^ Tregonning 1960, tr. 14.
  43. ^ Lines 1991, tr. 193.
  44. ^ Evans 2012, tr. 16.
  45. ^ Saya & Takashi 1993, tr. 54.
  46. ^ Bickersteth & Hinton 1996, tr. 19.
  47. ^ Braithwaite 2016, tr. 347.
  48. ^ Lim 2008, tr. 36.
  49. ^ Evans 1990, tr. 50.
  50. ^ Kratoska 2013, tr. 124.
  51. ^ Ooi 2010, tr. 201.
  52. ^ a b Heimann 1998, tr. 174.
  53. ^ Feuer 2005, tr. 27.
  54. ^ Ooi 2013, tr. 77.
  55. ^ Ooi 2010, tr. 208.
  56. ^ Oxford Business 2011, tr. 13.
  57. ^ Welman 2017, tr. 159.
  58. ^ Skutsch 2013, tr. 679.
  59. ^ a b Adams 1929, tr. 310.
  60. ^ a b c Northwestern University 1935, tr. 28.
  61. ^ a b Great Britain. Foreign Office 1888, tr. 238.
  62. ^ Cleary 1992, tr. 170.
  63. ^ Colchester 2011, tr. 87.
  64. ^ a b Danny 1999, tr. 134.
  65. ^ Wordie 2016.
  66. ^ a b c Tarling 2003, tr. 215.
  67. ^ John & Jackson 1973, tr. 88.
  68. ^ Ibbotson 2014, tr. 116.
  69. ^ a b Dixon 1991, tr. 107.
  70. ^ a b Akashi & Yoshimura 2008, tr. 23.
  71. ^ a b c Lane 2010, tr. 51.
  72. ^ Judkins 2016, tr. 149.
  73. ^ Herb & Kaplan 2008, tr. 1215.
  74. ^ Hose, McDougall & Haddon 1912, tr. 28.
  75. ^ Vinogradov 1980, tr. 73.
  76. ^ Jude 2016.
  77. ^ Baker 1962, tr. 134.
  78. ^ Lajiun 2017.
  79. ^ Armstrong 1920, tr. 32.

Tham khảo

  • British North Borneo Chartered Company (1886). Handbook of British North Borneo. W. Clowes & Sons, Limited.
  • Great Britain. Foreign Office (1888). British and Foreign State Papers. H.M. Stationery Office.
  • Hong Kong Daily Press Office (1912). The Directory & Chronicle for China, Japan, Corea, Indo-China, Straits Settlements, Malay States, Sian, Netherlands India, Borneo, the Philippines, &c: With which are Incorporated "The China Directory" and "The Hong Kong List for the Far East"... Hong Kong Daily Press Office.
  • Hose, Charles; McDougall, William; Haddon, Alfred Cort (1912). The pagan tribes of Borneo: a description of their physical, moral and intellectual condition, with some discussion of their ethnic relations. Macmillan and co., limited.
  • Armstrong, Douglas Brawn (1920). British & colonial postage stamps: a guide to the collection and appreciation of the adhesive postal issues of the British empire. Methuen.
  • Adams, W. C. (1929). “The Constabulary of North Borneo”. SAGE Publications: 310. doi:10.1177/0032258X2900200211. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Northwestern University (1935). “United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, etc. (Colonies, Protectorates and Mandated Territories)” (PDF). Northwestern University. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2018. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Chamber's (1950). Chamber's encyclopaedia. 2. G. Newnes.
  • Great Britain. Colonial Office (1956). Annual Report on North Borneo. H.M. Stationery Office.
  • Great Britain. Colonial Office (1958). Annual Report on North Borneo. H.M. Stationery Office.
  • Tregonning, K. G. (1960). North Borneo. H.M. Stationery Office.
  • Baker, Michael H. (1962). North Borneo: The First Ten Years 1946-1956. Malaya Publishing House.
  • Yong, Leng Lee (1965). North Borneo (Sabah): A Study in Settlement Geography. Eastern Universities Press.
  • Tregonning, K. G. (1965). A History of Modern Sabah (North Borneo, 1881-1963). University of Singapore.
  • Hilton, P. B.; Tate, Donna J. (1966). The modern world. Oxford University Press.
  • John, David W.; Jackson, James C. (1973). “The Tobacco Industry of North Borneo: A Distinctive Form of Plantation Agriculture”. 4 (1). Journal of Southeast Asian Studies: 88–106. doi:10.1017/S002246340001643X. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Vinogradov, A.G. (1980). The population of the countries of the world from most ancient times to the present days: Demography. WP IPGEB. GGKEY:CPA09LBD5WN.
  • Wright, Leigh R. (1988). The Origins of British Borneo. Hong Kong University Press. ISBN 978-962-209-213-6.
  • Evans, Stephen R. (1990). Sabah (North Borneo): Under the Rising Sun Government. Tropical Press.
  • Olson, James Stuart (1991). Historical Dictionary of European Imperialism. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-26257-9.
  • Lines, William J. (1991). Taming the Great South Land: A History of the Conquest of Nature in Australia. University of California Press. ISBN 978-0-520-07830-7.
  • Dixon, Chris (1991). South East Asia in the World-Economy. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-31237-0.
  • Cleary, M. C. (1992). “Plantation Agriculture and the Formulation of Native Land Rights in British North Borneo c. 1880-1930”. 158 (2). The Geographical Journal: 170–181. doi:10.2307/3059786. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Saya, Shiraishi; Takashi, Shiraishi (1993). The Japanese in Colonial Southeast Asia. SEAP Publications. ISBN 978-0-87727-402-5.
  • Bickersteth, Jane; Hinton, Amanda (1996). Malaysia & Singapore Handbook. Footprint Handbooks. ISBN 978-0-8442-4909-4.
  • Olson, James Stuart; Shadle, Robert (1996). Historical Dictionary of the British Empire. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-29366-5.
  • Heimann, Judith M. (1998). The Most Offending Soul Alive: Tom Harrisson and His Remarkable Life. University of Hawaii Press. ISBN 978-0-8248-2199-9.
  • Trost, R. Haller (1998). The Contested Maritime and Territorial Boundaries of Malaysia: An International Law Perspective. Kluwer Law International. ISBN 978-90-411-9652-1.
  • Webster, Anthony (1998). Gentleman Capitalists: British Imperialism in Southeast Asia 1770-1890. I.B.Tauris. ISBN 978-1-86064-171-8.
  • Danny, Wong Tze-Ken (1999). “Chinese Migration to Sabah Before the Second World War”. 58 (3). Persée: 131–158. doi:10.3406/arch.1999.3538. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Pryer, Ada (2001). A Decade in Borneo. A&C Black. ISBN 978-0-7185-0197-6.
  • Kratoska, Paul H. (2001). South East Asia, Colonial History: Empire-building in the nineteenth century. Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-21541-1.
  • Rottman, Gordon L. (2002). World War II Pacific Island Guide: A Geo-military Study. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-31395-0.
  • Tarling, Nicholas (2003). Imperialism in Southeast Asia. Routledge. ISBN 978-1-134-57082-9.
  • Ooi, Keat Gin (2004). Southeast Asia: A Historical Encyclopedia, from Angkor Wat to East Timor. ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-770-2.
  • Feuer, A. B. (2005). Australian Commandos: Their Secret War Against the Japanese in World War II. Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-3294-9.
  • McCord, Norman; Purdue, Bill (2007). British History 1815-1914. OUP Oxford. ISBN 978-0-19-926164-2.
  • Lim, Regina (2008). Federal-state Relations in Sabah, Malaysia: The Berjaya Administration, 1976–85. Institute of Southeast Asian Studies. ISBN 978-981-230-812-2.
  • Herb, Guntram H.; Kaplan, David H. (2008). Nations and Nationalism: A Global Historical Overview [4 volumes]: A Global Historical Overview. ABC-CLIO. ISBN 978-1-85109-908-5.
  • Akashi, Yōji; Yoshimura, Mako (2008). New Perspectives on the Japanese Occupation in Malaya and Singapore, 1941-1945. NUS Press. ISBN 978-9971-69-299-5.
  • Magenda, Burhan Djabier (2010). East Kalimantan: The Decline of a Commercial Aristocracy. Equinox Publishing. ISBN 978-602-8397-21-6.
  • Ooi, Keat Gin (2010). The Japanese Occupation of Borneo, 1941-45. Routledge. ISBN 978-1-136-96309-4.
  • Lane, Roger Dewardt (2010). Encyclopedia Small Silver Coins. Roger deWardt Lane. ISBN 978-0-615-24479-2.
  • Colchester, Marcus (2011). Divers Paths to Justice: Legal Pluralism and the Rights of Indigenous Peoples in Southeast Asia. Forest Peoples Programme. ISBN 978-616-90611-7-5.
  • Oxford Business (2011). The Report: Sabah. Oxford Business Group. ISBN 978-1-907065-36-1.
  • Doolittle, Amity A. (2011). Property and Politics in Sabah, Malaysia: Native Struggles Over Land Rights. University of Washington Press. ISBN 978-0-295-80116-2.
  • Evans, I. H. N. (2012). The Religion of the Tempasuk Dusuns of North Borneo. Cambridge University Press. ISBN 978-1-107-64603-2.
  • Dahlhoff, Guenther (2012). Bibliographic Set (2 Vol Set). International Court of Justice, Digest of Judgments and Advisory Opinions, Canon and Case Law 1946 - 2011. Martinus Nijhoff Publishers. ISBN 90-04-23062-9.
  • Jones, Geoffrey G (2013). The Multinational Traders. Routledge. ISBN 978-1-134-68001-6.
  • Kratoska, Paul H. (2013). Southeast Asian Minorities in the Wartime Japanese Empire. Routledge. ISBN 1-136-12506-X.
  • Ooi, Keat Gin (2013). Post-war Borneo, 1945-50: Nationalism, Empire and State-Building. Routledge. ISBN 1-134-05803-9.
  • Saunders, Graham (2013). A History of Brunei. Routledge. ISBN 978-1-136-87394-2.
  • Fry, Howard T. (2013). Alexander Dalrymple and the Expansion of British Trade. Taylor & Francis. ISBN 978-1-136-60694-6.
  • Skutsch, Carl (2013). Encyclopedia of the World's Minorities. Routledge. ISBN 978-1-135-19388-1.
  • Ibbotson, Ross (2014). “The History of Logging in North Borneo”. 87 (2). ResearchGate: 116–118. doi:10.1353/ras.2014.0011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • Panton, Kenneth J. (2015). Historical Dictionary of the British Empire. Rowman & Littlefield Publishers. ISBN 978-0-8108-7524-1.
  • de Vienne, Marie-Sybille (2015). Brunei: From the Age of Commerce to the 21st Century. NUS Press. ISBN 978-9971-69-818-8.
  • Judkins, Maggie (2016). Standard Catalog of World Paper Money, General Issues, 1368-1960. "F+W Media, Inc.". ISBN 978-1-4402-4707-1.
  • Braithwaite, Richard Wallace (2016). Fighting Monsters: An Intimate History of the Sandakan Tragedy. Australian Scholarly Publishing. ISBN 978-1-925333-76-3.
  • Fitzgerald, Robert (2016). The Rise of the Global Company: Multinationals and the Making of the Modern World. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-84974-6.
  • Jude, Marcel (2016). “Japanese community in North Borneo long before World War II”. The Borneo Post. PressReader.
  • Barbara Watson, Andaya; Leonard Y, Andaya (2016). A History of Malaysia. Palgrave Macmillan. ISBN 978-1-137-60515-3.
  • Epstein, Mortimer (2016). The Statesman's Year-Book: Statistical and Historical Annual of the States of the World for the Year 1943. Springer. ISBN 978-0-230-27072-5.
  • Wordie, Jason (2016). “From settlers to snorkelling, Hong Kong has long had links to Sabah”. South China Morning Post. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2017.
  • Welman, Frans (2017). Borneo Trilogy Volume 1: Sabah. Booksmango. ISBN 978-616-245-078-5.
  • Press, Steven (2017). Rogue Empires: Contracts and Conmen in Europe's Scramble for Africa. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-97185-1.
  • Lajiun, Jenne (2017). “Sabah's first railway station proposed as historical heritage site”. The Borneo Post. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2017.

Đọc thêm

  • Keppel, Henry; Brooke, James; WalterKeating, Kelly (1847). “The expedition to Borneo of H.M.S. Dido for the suppression of piracy: with extracts from the journal of James Brooke, Esq., of Sarawak”. University of California Libraries. London: Chapman and Hall. tr. 347.
  • British North Borneo Chartered Company (1878). “British North Borneo company charter”. Cornell University Library. [S.l.: s.n. tr. 32.
  • Daly, D. D. (1888). “Explorations in British North Borneo, 1883–87”. Proceedings of the Royal Geographical Society. Wiley on behalf of The Royal Geographical Society (with the Institute of British Geographers). 10 (1): 1–24. doi:10.2307/1801441.
  • Mayne, R. C. (1888). “Summary of Explorations in British North Borneo”. Proceedings of the Royal Geographical Society. Wiley on behalf of The Royal Geographical Society (with the Institute of British Geographers). 10 (3): 134–146. doi:10.2307/1800783.
  • Treacher, W. H (1891). “British Borneo: sketches of Brunai, Sarawak, Labuan, and North Borneo”. University of California Libraries. Singapore, Govt. print. dept. tr. 190.
  • Roth, Henry Ling; Low, Hugh Brooke (1896). “The natives of Sarawak and British North Borneo; based chiefly on the mss. of the late H. B. Low, Sarawak government service”. University of Michigan Library. London, Truslove & Hanson. tr. 503.
  • British North Borneo Chartered Company (1899). “Views of British North Borneo: with a brief history of the colony, compiled from official records and other sources of information of an authentic nature, with trade returns, &c., showing the progress and development of the chartered company's territory to the latest date.”. Cornell University Library. London: Printed by W. Brown & Co., Ltd. tr. 76.
  • Rutter, Owen (1922). “British North Borneo: an account of its history, resources, and native tribes”. Cornell University Library. London: Constable & Co. Ltd. tr. 496.

Liên kết ngoài

  • North Borneo Historical Society Lưu trữ 2017-10-21 tại Wayback Machine – More information on heritage of North Borneo
  • x
  • t
  • s

Chú giải
Lãnh thổ hiện nay  ·   Lãnh thổ cũ
* hiện là Vương quốc Khối thịnh vượng chung  ·   hiện là thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh

Thế kỷ 18
1708-1757  Menorca
từ 1713  Gibraltar
1782-1802  Menorca

Thế kỷ 19
1800-1964  Malta
1807-1890  Heligoland
1809-1864  Quần đảo Ionia
1878-1960  Síp

Thế kỷ 20
từ 1960  Akrotiri và Dhekelia

Thế kỷ 16
1583-1907  Newfoundland

Thế kỷ 17
1607-1776  Mười ba bang thuộc địa
từ 1619  Bermuda
1670-1870  Vùng đất của Rupert

Thế kỷ 18
Canada (thuộc Đế quốc Anh)
   1763-1791  Quebec
   1791-1841  Hạ Canada
   1791-1841  Thượng Canada

Thế kỷ 19
Canada (thuộc Đế quốc Anh)
   1841-1867  Tỉnh Canada
   1849-1866  Đảo Vancouver
   1858-1871  Columbia của Anh
   1859-1870  Lãnh thổ Tây Bắc
   1862-1863  Lãnh thổ Stikine
*Canada (hậu Liên minh)
   1867-1931  Lãnh địa của Canada1

Thế kỷ 20
*Canada (hậu Liên minh)
   1907-1934  Lãnh địa của Newfoundland2

1 Vào năm 1931, Canada và những lãnh địa thuộc Anh khác đã có được chính quyền tự chủ thông qua Đạo luật Westminster. 'Lãnh địa' còn là quyền sở hữu hợp pháp của Canada; xem Tên của Canada.
2 Vẫn còn là một lãnh địa de jure cho đến 1949 (khi nó trở thành một tỉnh của Canada); từ 1934 đến 1949, Newfoundland do Ủy ban Chính phủ quản lý.

Thế kỷ 17
1605-1979  *Saint Lucia
1623-1883  Saint Kitts (*Saint Kitts & Nevis)
1624-1966  *Barbados
1625-1650  Saint Croix
1627-1979  *St. Vincent và Grenadines
1628-1883  Nevis (*Saint Kitts & Nevis)
1629-1641  St. Andrew và Quần đảo Providence3
từ 1632  Montserrat
1632-1860  Antigua(*Antigua & Barbuda)
1643-1860  Quần đảo Bay
từ 1650  Anguilla
1651-1667  Willoughbyland (Suriname)
1655-1850  Bờ biển Mosquito (bảo hộ)
1655-1962  *Jamaica
từ 1666  Quần đảo Virgin thuộc Anh
từ 1670  Quần đảo Cayman
1670-1973  *Bahamas
1670-1688  St. Andrew và Quần đảo Providence3
1671-1816  Quần đảo Leeward

Thế kỷ 18
1762-1974  *Grenada
1763-1978  Dominica
từ 1799  Quần đảo Turks và Caicos

Thế kỷ 19
1831-1966  Guiana thuộc Anh (Guyana)
1833-1960  Quần đảo Windward
1833-1960  Quần đảo Leeward
1860-1981  *Antigua và Barbuda
1871-1964  Honduras thuộc Anh (*Belize)
1882-1983  *St. Kitts và Nevis
1889-1962  Trinidad và Tobago

Thế kỷ 20
1958-1962  Liên bang Tây Ấn

3 Hiện nay là Khu hành chính San Andrés y Providencia của Colombia.

Thế kỷ 18
1792-1961  Sierra Leone
1795-1803  Thuộc địa Cabo

Thế kỷ 19
1806-1910  Thuộc địa Cabo
1816-1965  Gambia
1856-1910  Natal
1868-1966  Basutoland (Lesotho)
1874-1957  Bờ Biển Vàng (Ghana)
1882-1922  Ai Cập
1884-1966  Bechuanaland (Botswana)
1884-1960  Somaliland thuộc Anh
1887-1897  Zululand
1888-1894  Matabeleland
1890-1980  Nam Rhodesia (Zimbabwe)
1890-1962  Uganda
1890-1963  Zanzibar (Tanzania)
1891-1964  Nyasaland (Malawi)
1891-1907  Trung Phi thuộc Anh
1893-1968  Swaziland
1895-1920  Đông Phi thuộc Anh
1899-1956  Sudan thuộc Anh-Ai Cập

Thế kỷ 20
1900-1914  Bắc Nigeria
1900-1914  Nam Nigeria
1900-1910  Thuộc địa Sông Orange
1906-1954  Thuộc địa Nigeria
1910-1931  Nam Phi
1911-1964  Bắc Rhodesia (Zambia)
1914-1954  Nigeria Bảo hộ
1915-1931  Tây Nam Phi (Namibia)
1919-1960  Cameroons (Cameroon) 4
1920-1963  Kenya
1922-1961  Tanganyika (Tanzania) 4
1954-1960  Nigeria
từ 1965  Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh

4 Hội Quốc Liên ủy thác.

Thế kỷ 18
1757-1947  Bengal (Tây Bengal (Ấn Độ)Bangladesh)
1762-1764  Philippines
1795-1948  Ceylon (Sri Lanka)
1796-1965  Maldives

Thế kỷ 19
1819-1826  Malaya thuộc Anh (Bán đảo MalaysiaSingapore)
1826-1946  Các khu định cư Eo biển
1839-1967  Thuộc địa Aden
1841-1997  Hồng Kông
1841-1941  Vương quốc Sarawak
1858-1947  Ấn Độ thuộc Anh (Ấn Độ, PakistanBangladesh, Miến Điện)
1882-1963  Bắc Borneo thuộc Anh (Malaysia)
1885-1946  Các bang Mã Lai chưa phân loại
1891-1971  Muscat và Oman bảo hộ
1892-1971  Các quốc gia Trucial bảo hộ
1895-1946  Các bang Liên bang Mã Lai
1898-1930  Đơn vị đồn trú Uy Hải

Thế kỷ 20
1918-1961  Kuwait bảo hộ
1920-1932  Iraq4
1921-1946  Transjordan4
1923-1948  Lãnh thổ Ủy trị Palestine4
1946-1948  Liên hiệp Mã Lai
1946-1963  Thuộc địa vương thất Sarawak
1948-1957  Liên bang Mã Lai (Malaysia)

4 Hội Quốc Liên ủy thác.

Thế kỷ 18
1788-1901  New South Wales
1794-1843  Quần đảo Sandwich (Hawaii)

Thế kỷ 19
1803-1901  Vùng đất của Van Diemen/Tasmania
1807-1863  Quần đảo Auckland6
1824-1980  New Hebrides (Vanuatu)
1824-1901  Queensland
1829-1901  Thuộc địa Sông Swan/Tây Úc
1836-1901  Nam Úc
từ 1838  Quần đảo Pitcairn
1841-1907  *Thuộc địa New Zealand
1850-1901  Victoria (Úc)
1874-1970  Fiji5
1877-1976  Lãnh thổ Tây Thái Bình Dương thuộc Anh
1884-1949  Lãnh thổ Papua
1888-1965  Quần đảo Cook6
1888-1984  Sultanate Brunei
1889-1948  Quần đảo Union (Tokelau)6
1892-1979  Quần đảo Gilbert và Ellice7
1893-1978  Quần đảo Solomon thuộc Anh8

Thế kỷ 20
1900-1970  Tonga (quốc gia được bảo hộ)
1900-1974  Niue6
1901-1942  *Khối thịnh vượng chung Úc
1907-1947  *Lãnh thổ tự trị New Zealand
1919-1949  Lãnh thổ New Guinea
1949-1975  Lãnh thổ Papua và New Guinea9

5 Thành viên bị treo.
6 Hiện là một phần của *Vương quốc New Zealand.
7 Hiện nay là Kiribati và *Tuvalu.
8 Hiện nay là *Quần đảo Solomon.
9 Hiện nay là *Papua New Guinea.

Thế kỷ 17
từ 1659  St. Helena

Thế kỷ 19
từ 1815  Đảo Ascension9
từ 1816  Tristan da Cunha9
từ 1833  Quần đảo Falkland11

Thế kỷ 20
từ 1908  Lãnh thổ Nam cực thuộc Anh10
từ 1908  Quần đảo Nam Georgia và
                    Nam Sandwich
10, 11

9 Lãnh thổ phụ thuộc St. Helena từ năm 1922 (Đảo Ascension) và 1938 (Tristan da Cunha).
10 Cả hai tuyên bố vào năm 1908; lãnh thổ hình thành năm 1962 (Lãnh thổ Nam cực thuộc Anh) và 1985 (Quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich).
11 Argentina chiếm đóng trong Chiến tranh Falklands vào tháng 4-tháng 6 năm 1982.