Án văn tự đầu đời Minh

Án văn tự đầu đời Minh hay Ngục văn tự đời Minh là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở Trung Quốc.

Người quăng lưới đầu tiên đời Minh

Minh Thái Tổ.

Theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học, thì Minh Thái Tổ (1328-1398) tức Chu Nguyên Chương, chính là người quăng lưới "ngục văn tự" đầu tiên trong triều đại do ông khai sáng (1368-1644).

Chu Nguyên Chương, lúc trẻ nghèo khổ, ít học, từng làm sư ở chùa Hoàng Giác. Trong cao trào khởi nghĩa nông dân, ông đi theo quân Hồng Cân (Khăn đỏ) do Quách Tử Hưng chỉ huy. Đến khi Tử Hưng mất, Nguyên Chương lên thay, tôn Tiểu Minh Vương là Hàn Lâm Nhi làm thủ lĩnh. Sau khi tấn công Tập Khánh (nay là Nam Kinh), Nguyên Chương được phong là Ngô Quốc Công.

Lúc đầu, Nguyên Chương biết tôn trọng hiền sĩ, biết nghe theo đề nghị của Chu Thăng "xây tường cao, tích lương nhiều, hoãn việc xưng vương", song ngay sau khi tiêu diệt được Trần Hữu Lượng, cũng là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa khác chống Nguyên, Nguyên Chương liền tự xưng là Ngô Vương, phát tán cáo trạng nguyền rủa quân Hồng Cân mà mình từng theo là "yêu nghiệt" và sai người giết chết Hàn Lâm Nhi.

Tiếp đó, Nguyên Chương đánh bại một đội quân khởi nghĩa khác, khiến tướng chỉ huy là Trương Sĩ Thành phải tự sát.

Năm 1367, Nguyên Chương tiến hành bắc phạt, năm sau (1368), lên ngôi Hoàng đế, dựng nên vương triều Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ. Cũng năm ấy, ông cho đánh chiếm Đại Đô (nay là Bắc Kinh), lật đổ triều Nguyên, từng bước thu phục đất đai cả nước.

Lưới ngục văn tự

Nguyên do

Lên ngôi xong, song song với việc tiến hành một số cải cách kinh tế, Chu Nguyên Chương liền cho thiết lập một chế độ trung ương tập quyền cao độ và thi hành những chính sách văn hóa bảo thủ và nghiêm ngặt. Một mặt, nhà vua cổ xúy loại văn nhằm ca tụng công đức của mình; mặt khác, ông ra tay đàn áp văn nhân.

Theo GS. Phan Khoang, bởi nhà vua vốn vi tiện xuất thân, nên đối với các văn thần thường hay nghi kỵ, bề tôi dâng biểu chương trong có chữ gì vua ngờ là có ý nhạo báng mình thì bị giết hết[1].

Học giả Nguyễn Hiến Lê có ý kiến tương tự:

Cũng như Lưu Bang, vì ít học, nên ông (Chu Nguyên Chương) nghi kỵ các văn thần... Sử chép có người khen ông là biết "đạo", ông hiểu là mỉa ông làm "đạo tặc". Một người khác nịnh ông là làm "tăng trí tuệ lên" (tăng trí), ông cho rằng chê ông có cái trí tuệ của thầy tăng (nhà sư)...Ông là ông vua Hán độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa, không kém Tần Thủy Hoàng[2].

Trong một bài viết trên Nguyệt san Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, thì cho rằng có một võ tướng đã to nhỏ với Chu Nguyên Chương rằng thiên hạ này là do nhà vua chinh chiến, trải bao hiểm nguy khó nhọc mới giành được; ngược lại, giới văn nhân ngồi không mà được hưởng. Và nếu phải dùng họ thì không nên quá tin vì giới văn nhân thường xoi mói, châm chọc, phỉ báng. Như Trương Sỹ Thành cả đời sủng ái văn nhân, cho họ có nhà cao cửa rộng…vậy mà khi nhờ chọn tên, họ lại chọn cho ông ta cái tên: Sỹ Thành. Viên tướng này giải thích: Trong sách Mạnh Tử, xưa có câu "Sỹ, thành tiểu nhân dã" (người kẻ sĩ thành ra kẻ tiểu nhân vậy). Cũng có thể dời dấu phẩy thành "Sỹ Thành, tiểu nhân dã" (Sỹ Thành là kẻ tiểu nhân). Câu chửi trích từ lời thánh hiền xưa, đến chết y cũng không vỡ lẽ ra, thật là đáng thương. Kể từ đó, Chu Nguyên Chương rất chú ý tới những bản tấu sớ do quần thần dâng lên, nghiền ngẫm từng câu từng chữ xem có ý phạm thượng nào không...[3]

Lược kể một vài vụ án

Thời rộ lên các vụ án văn tự, hầu như tất cả những người viết vô tình phạm câu chữ kỵ húy đều bị khép tội phỉ báng Hoàng đế. Nhẹ thì họ bị chém đầu; nặng thì bị chém ngang lưng, bị tùng xẻo...

Dưới thời Minh Thái Tổ

Giáo thụ Chiết Giang là Lâm Nguyên Lượng, Huấn đạo Bắc Bình là Triệu Bá Ninh, Huấn đạo Phúc Châu là Lâm Bá Cảnh, Học chính Phong Châu là Mạnh Thanh...đều phạm tội, đơn giản chỉ vì trong các bài biểu họ viết hộ cho quan trên dâng lên vua có hai chữ "tác tắc", mà chữ " tắc" (phép tắc) đọc na ná như " tặc" (giặc), nên Chu Nguyên Chương cho rằng "tác tắc" không phải để ca ngợi mà ám chỉ ông ngày trước là "đạo tặc" (bọn trộm cướp), nghịch tặc (kẻ phản nghịch), gian tặc (kẻ chuyện làm chuyện giả dối bất lương) và làm giặc! Thế là cả những người viết hộ và người dâng biểu đều bị lôi ra chém chết.

Tương tự, Hàng Châu phủ học giáo thụ là Hứa Nhất Khởi làm bài biểu tấu chúc mừng trong có câu "Quang thiên chi hạ, thiên sinh thánh nhân, vi thế tác tắc" (Dưới trời sáng láng, trời sinh thánh nhân, làm khuôn phép cho đời). Nguyên Chương đọc xong, liền xử tội chết vì cho rằng câu văn trên Nhất Khởi đã ám chỉ mình là tăng, là giặc. Bởi theo vua Minh, thì chữ "thánh nhân" có ý nói ông là "tăng nhân" (hai chữ đọc cùng âm), là trọc đầu ("quang" gợi đến chữ " quang đầu" có nghĩa trọc đầu) và là giặc ("tắc" cùng âm với "tặc").

Tương tự, Giáo thụ huyện Úy Thị tên Hứa Nguyên cũng làm bài biểu tấu mừng, trong đó có tám chữ "Thể càn pháp khôn, tào sức thái bình" (Thể chế như trời phép tắc như đất, trau chuốt làm đẹp cảnh thái bình). Chu Nguyên Chương suy ra cho rằng "pháp khôn" nghĩa là hình phạt cạo trọc đầu và "Tảo sức thái bình" là "Tảo thất thái bình", có nghĩa sớm sẽ gặp binh đao loạn lạc. Vậy là Hứa Nguyên bị lôi ra xử tùng xẻo.

Thấy vậy, quan chức bộ Lễ đến xin Minh Thái Tổ hãy giáng một đạo dụ, để thần dân cứ theo thế mà theo.

Năm Hồng Vũ năm thứ 29 (1396), vua ra lệnh cho Lưu Tam Ngô, hàn lâm viện học sĩ soạn mẫu biểu khánh chúc tạ ơn, rồi ban bố ra thiên hạ để giới văn nhân học sĩ cứ thế mà theo.

Năm Hồng Vũ thứ ba cấm dân chúng đặt tên cho con là Thiên, Quốc, Quân, Thánh, Thần.

Năm Hồng Vũ thứ 26 lại cấm dân trăm họ đặt tên là Thái Tổ, Thánh Tôn, Long Tôn, Hoàng Tôn, Thái Thúc. Thậm chí cả những danh từ dân gian quen dùng vẫn bị cấm. Ví dụ như "y sinh" (thầy thuốc. Chữ "sinh" đọc giống chữ "tăng") chỉ được gọi là y sĩ, y nhân, y giả...[3]

GS. Nguyễn Khắc Phi cũng đã kể mấy mẩu chuyện như sau:

Cao Khải (1330-1374), người Tô Châu, được xem là một nhà thơ lớn nhất đời Minh. Cuối đời Nguyên, ông ở ẩn bên dòng sông Ngô Tùng. Đầu đời Minh, năm Hồng Vũ thứ hai, được tiến cử biên soạn bộ Minh sử, ông đành miễn cưỡng vào kinh. Năm sau Chu Nguyên Chương ban cho ông chức quan cao là Hữu thị lang bộ Hộ, song ông nhất quyết từ chối, chỉ một mực xin được về quê, nên nhà vua giận lắm.

Sau, Tri phủ Tô Châu là Ngụy Quan xây dựng phủ đường trên nền cung điện của Trương Sĩ Thành, bị Nguyên Chương xử chém ngang lưng vì cho thế là phạm tội đại nghịch. Khi tra xét án, biết được lúc dựng phủ đường này, Cao Khải có làm một bài văn trong đó có bốn chữ "hổ cứ long bàn" (hổ ngồi rồng nằm), Chu Nguyên Chương tức giận vì cho thế là Cao Khải đã xui Ngụy Quan chống lại mình. Cái giận cũ chưa nguôi nay lại thêm cái giận mới, cho nên Nguyên Chương ra lệnh chém Cao Khải ngang lưng giữa thành phố Nam Kinh, rồi còn sai xẻ thây làm 8 mảnh. Ngoài Cao Khải, các văn nhân rất nổi tiếng khác như Đới Lương, Trương Mạnh Kiêm cũng vì thơ văn phạm húy mà bị giết...

Một nhà sư hiệu là Thủ Nhân ở núi Tứ Minh (Chiết Giang), được triệu về kinh. Ở đây, ông có làm bài thơ nhan đề là Phỉ thúy (Chim trả) như sau:

Kiến thuyết Viêm châu tiến thúy y,
Võng la nhất nhật biến đông tê (tê).
Vũ mao diệc túc vi thân lụy,
Na đắc thu tâm tĩnh xứ thê?
Dịch nghĩa:
Nghe nói châu Viêm tiến áo trả,
Một ngày bủa lưới khắp nơi nơi.
Cánh lông còn khiến thân chim lụy,
Rừng thu sao được chỗ yên ngơi?

Chu Nguyên Chương cho đó là một bài thơ phỉ báng mình, nên ra lệnh chém chết nhà sư.

Một nhà thơ khác, hiệu là Đức Tường ở Tiền Đường cũng được triệu về kinh, rồi cũng vì một bài thơ Hạ nhật tây viên (Vườn phía tây ngày hè) mà bị chém. Nhà vua chất vấn từng câu một, trong đó có câu 2 như thế này: "Nhiệt thời vô xứ khá thừa lương". Đọc xong, nhà vua hỏi: nhà ngươi nói "lúc trời oi bức không có chỗ hóng mát", có phải là phúng thích hình pháp của ta quá nghiêm khắc không?...

Có lần, Chu Nguyên Chương đi thăm một ngôi chùa, thấy trên tường có người đề bài thơ như sau:

Đại thiên thế giới hạo mang mang,
Thu thập đồ tương nhất đại trang.
Tất cánh hữu thu hoàn hữu tán
Phóng khoan tá tử hựu hà phương!
Tạm dịch:
Thế giới bao la và bất tận,
Một bao chứa cất của thu vào.
Rốt cuộc có thu rồi có phát,
Rộng tay một chút ngại gì đâu!

Nhà vua cho thế là có ý châm biếm hình pháp quá nghiêm ngặt, bèn đưa toàn bộ những nhà sư trong chùa ra chém sạch!

Không chỉ đối với đương thời mà với cổ nhân, Chu Nguyên Chương cũng không khoan thứ. Ông cho rằng những câu trong cuốn Mạnh Tử, như:

Vua xem bề tôi như tay chân, thì bề tôi coi vua như lòng dạ,
Vua xem bề tôi như chó ngựa, thì bề tôi coi vua như dân thường,
Vua xem bề tôi như đất cỏ thì bề tôi coi vua như giặc cướp, như kẻ thù (dịch trong "thiên li lâu, hạ").

Nguyên Chương cho vậy là: "đại nghịch bất đạo", nên lệnh cho loại bỏ bài vị Mạnh Tử ra khỏi miếu thờ, và thủ tiêu tư cách Á thánh của ông.[4]

Ngoài những vụ án văn tự trên, theo Tiêu Lê, văn thần võ tướng, còn bị càn quét triệt để hai lần nữa: Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), Thừa tướng Hồ Duy Dung bị kết tội mưu phản, làm liên lụy đến hơn 3 vạn người vô tội. Năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), Lam Ngọc cũng chịu chung số phận như vậy cùng với 2 vạn người…[5].

Dưới thời Minh Thành Tổ

Minh Thành Tổ.

Chu Nguyên Chương mất, con là Chu Lệ (được phong làm Yên Vương) kéo quân về tranh ngôi với cháu là Chu Doãn Văn. Tranh đoạt được, Chu Lệ xưng là Minh Thành Tổ, rồi ra lệnh giết hàng loạt quan lại trung thành với Chu Doãn Văn. Tình hình chính trường rất căng thẳng, lưới văn tự lại càng nghiêm ngặt.

Bấy giờ, có một danh sĩ rất mọi người được trọng vọng, đó là Phương Hiếu Nhụ (hay Hiếu Nho), người Chiết Giang. Chu Lệ cho mời vào buộc phải viết "chiếu lên ngôi". Vị Văn học bác sĩ này không chịu làm, vua dọa giết hết cửu tộc. Hiếu Nhụ đáp: Dẫu giết hết mười tộc cũng không viết. Vua đưa bút ép, Hiếu Nhụ viết lớn bốn chữ: Yên tặc thoán vị (Giặc Yên cướp ngôi). Nhà vua nổi giận, sai phanh thây Phương Hiếu Nhụ ở chợ, giết hết chín tộc rồi còn cho giết cả con em của những bộ hạ cho đủ mười tộc, đúng như lời Hiếu Nhụ thách thức! Số người chết trong vụ án này, già trẻ trước sau bị giết tới 873 người.

Cù Hựu, người Hàng Châu, là một nhà văn nổi tiếng nhất đời Minh, vì làm mấy thơ tỏ nỗi bất bình mà bị tống giam rồi bị đày về vùng Bảo An (nay thuộc huyện Chí Đan, tỉnh Thiểm Tây)[6].

Hậu quả

Sách Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 3) có đoạn:

Lưới văn chương ở thời kỳ đầu Minh cực kỳ nghiêm ngặt, các văn sĩ thường chỉ nhầm một chữ, một câu mà mắc họa...Vì thế, trong sáng tác các văn nhân phải cẩn thận, hết sức tránh nói đến chính trị. Điều đó, lý giải vì sao thơ văn thời này rất ít bài phản ảnh hiện thực, mà tràn ngập một không khí điểm xuyết thanh bình và ca ngợi công đức, nhằm thích ứng với nhu cầu của giai cấp thống trị mới.
Ngoài ra, để tiến thêm một bước trong việc khống chế và trói buộc tư tưởng của tầng lớp trí thức, giai cấp thống trị đã ra sức đề xướng triết học Trình Hạo-Chu Hi. Hơn nữa, Minh Thành Tổ đã ra lệnh Hồ Quảng, Dương Vinh biên soạn lại Tứ thư, Ngũ kinh, Tính Lý đại toàn, và buộc học sinh trong cả nước phải học. Và muốn cho tầng lớp trí thức cam tâm cúi đầu phục vụ mình, ông ta còn đặt ra lối thi cử bằng văn bát cổ, cốt làm hạn chế tư tưởng của giới nho sinh.
Tóm lại, trừ tiểu thuyết ra, thành tựu văn học đầu Minh không lớn.[7]

Chú thích

  1. ^ Phan Khoang, Trung Quốc sử lược (in lần thứ tư). Văn sử học xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 278
  2. ^ Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (tập 2). Nhà xuất bản Văn hóa, 1997, tr. 119.
  3. ^ a b Hữu Cường, Những vụ án văn tự đầu đời Minh trên Nguyệt san Pháp luật: [1] Lưu trữ 2010-01-16 tại Wayback Machine.
  4. ^ Nguyễn Khắc Phi, Thơ văn cổ Trung Hoa-mãnh đất quen mà lạ. Nhà xuất bản Giáo dục, 1999, tr. 331-334.
  5. ^ Tiêu Lê, Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc (tập 3), Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr 250-251.
  6. ^ Theo Nguyễn Khắc Phi, sách đã dẫn, tr. 330-336. Có tham khảo thêm GS. Phan Khoang, Trung Quốc sử lược, tr. 279.
  7. ^ Lịch sử văn học Trung Quốc (tập 3). Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc. Bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành, 1995, tr. 191-192.
  • x
  • t
  • s
Sự kiện lịch sử thời nhà Minh
Sơ kỳ
(Hồng Vũ đến
Tuyên Đức)
Nguyên mạt dân biến · Khởi nghĩa Khăn Đỏ (Cái chết của Hàn Sơn Đồng, Khởi nghĩa Hàn Lâm Nhi, Khởi nghĩa Từ Thọ Huy, Khởi nghĩa Quách Tử Hưng, Trương Sĩ Thành khởi sự· Minh Sơ nhị thập tứ tướng · Ba lần đánh Tập Khánh · Diệt Trần Hữu Lượng (Trận chiến bảo vệ thành Hồng Đô, Trận hồ Bà Dương · Diệt Trương Sĩ Thành · Diệt Phương Quốc Trân · Bình định Mân, Quảng) · Bắc phạt và thống nhất (Từ Đạt bắc phạt, Hồng Vũ bắc phạt, Công thủ Hà Nam và Sơn Đông, Hà Bắc và Thượng Đô, bình định Sơn Tây và Thu phục Cam Túc, Bình định Vân Nam, Bình định Tứ Xuyên, Thu hồi Yến Vân 16 châu, Bình định Liêu Đông, Trận chiến Kim Sơn, Trận Bộ Ngư Hải) · Tiến quân Tây Tạng (Ô Tư Tạng hành đô chỉ huy sứ tư, Đóa Cam Tư hành đô chỉ huy sứ tư, Nga Lực Tư quân dân và phủ nguyên soái)  · Chế độ Vệ sở · Kiến Đô chi nghị · Thịnh trị đời Hồng Vũ · Cuộc di dân lớn thời Hồng Vũ (Giang Tây dời sang Hồ Quảng, Hồ Quảng dời sang Tứ Xuyên) · Trà mã mậu dịch · Phế trừ Trung thư tỉnh · Đô bố án tam tư (Đô chỉ huy sứ tư, Bố chánh sứ tư, Án sát sứ tư)  · Hải cấm · Bốn vụ án thời Minh sơ (Án Hồ Duy Dung, Án Không ấn, Án Quách Hoàn, Án Lam Ngọc)  · Nam Bắc bảng án · Cải cách Kiến Văn · Tĩnh Nan chi họa · Nhâm Ngọ chi nạn · Vĩnh Lạc dời đô (Phủ Thuận Thiên, Cố Cung· Thịnh trị đời Vĩnh Lạc · Kiến lập Nội các · Hán vệ (Cẩm y vệ, Đông xưởng, Tây xưởng, Nội hành xưởng) · Ngục văn tự · Trịnh Hòa hạ Tây Dương · Kinh doanh Nam Hải (Vĩnh Lạc quần đảo, Vĩnh Lạc hoàn tiều, Tuyên Đức quần đảo, Vĩnh Lạc long đỗng, Chiến tranh Minh - Sri Lanka, Cựu Cảng tuyên úy tư) · Vạn quốc lai triều (Triều Tiên, An Nam, Lưu Cầu, Chiêm Thành, Tiêm La, Trảo Oa, Bột Nệ, Lữ Tống, Tô Lộc, Hợp Miêu Khỏa, Mỹ Lạc Cư, Bà La, Cổ Ba Lạt Lãng, Chân Lạp, Đế quốc Thiếp Mục Nhi) · Tông phiên · Tam đại doanh (Ngũ quân doanh, Tam thiên doanh, Thần Cơ doanh· Nam chinh An Nam · Thống trị An Nam (Giao Chỉ đẳng thừa tuyên bố chánh sứ tư, Khởi nghĩa Lam Sơn· Quý Châu kiến chế · Tam tuyên lục úy · Biến loạn Đường Tái · Minh Thành Tổ bắc phạt · kinh doanh đông bắc (Nỗ Nhi Can đô chỉ huy sử tư, Diệc Thất Ha tuần thị đông bắc, Thành Đặc Lâm, Chùa Vĩnh Ninh, Vĩnh Ninh tự bi, Kiến châu tam vệ, Liêu Đông đô chỉ huy sứ tư) · Trần Thành đi sứ Đế quốc Timur (Tây Vực phiên quốc chí, Tây Vực hành trình kí· Vĩnh Lạc đại điển · Chu Cao Xí giám quốc · Loạn Cao Hú · Nhân Tuyên chi trị · Tam Dương phụ chánh · Tuyên Tông phế hậu · Ha Mật vệ
Trung kỳ
(từ Chánh Thống
đến Gia Tĩnh)
Vương Chấn thiện chánh · Chiến dịch Lộc Xuyên · Chiết Mân dân biến · Trận Đại Đồng · Sự biến Thổ Mộc Bảo · Cảnh Thái kế thống · Huyết án Ngọ môn · Chiến dịch bảo vệ kinh sư · Đổi trữ quân chi tranh · Nam cung phục ngôi · Tào Thạch chi biến · Trọng tu Hoàn Vũ thông chí · Uông Trực thiện chánh · Dân biến Vân Dương · Loạn Đằng Hạp Đạo · Ha Mật chi tranh · Loạn Cố Nguyên Đạo · Loạn Hà Sáo · Thành Hóa tân phong · Vương Văn Tố với Tân tập thông chứng cổ kim Toán học bảo giám · Hoằng Trị trung hưng · Cửu biên · Nam Huy Bắc Tấn · Án Mãn Thương Nhi · Hải vận nghiêm cấm · Án yêu ngôn Trịnh Vương · Lưu Cẩn thiện chánh · Khởi nghĩa An Hóa vương ·  · Khởi nghĩa Lưu Lục, Lưu Thất · Giặc cướp Xuyên Thục · Chánh Đức nam tuần · Ứng châu đại tiệp · Loạn Ninh vương · Đạo loạn ở Nam Cám · Giang Bân thiện chánh · Vương Dương Minh và Dương Minh Học · Gia Tĩnh kế thống · Đại lễ nghị · người Phật Lăng Cơ (Bồ Đào Nha) đến (Truân Môn: Hải chiến Truân Môn, Tây Thảo Loan chi chiến, Cảng Song Tự, Áo Môn· Binh biến Đại Đồng · Gia Tĩnh nam tuần · Thiên Lăng chi nghị · Loạn Sầm Mãnh · Nhâm Dần cung biến · Gia Tĩnh trung hưng · Cung biến ở Sở phiên · Nghiêm Tung thiện chánh · Nam Uy bắc Lỗ · Thích Kế Quang kháng người Oa · Lý Phúc Đạt chi ngục · Nghị phục Hà Sáo · Chính biến Canh Tuất · Gia Tĩnh đại địa chấn · Lý Thời Trân với Bảo thảo cương mục
Mạt kỳ
(Long Khánh đến
Sùng Trinh)
Long Khánh tân chánh(Long Khánh khai quan, Yêm Đáp phong cống, Khai Trung pháp)  · Trương Cư Chánh phụ chánh (Nhất điều tiên pháp, Khảo thành pháp, Vương Quốc Quang và Vạn Lịch hội kế lục, Phan Quý Tuần trị thủy) · Vạn Lịch trung hưng · Trọng tu trường thành · Ba cuộc chinh phạt thời Vạn Lịch (Chiến dịch Ninh Hạ, Chiến tranh Mậu Thìn, Chiến dịch Bá châu) · Tần Lương Ngọc cùng Bạch Can binh · Cuộc chiến tranh giành Quốc bổn · Vạn Lịch đãi chánh · Tề Sở Chiết đảng · Chu Tái 堉 với Thập nhị bình quân luật · người Y Lợi Á (Tây Ban Nha) đông lai (Đại đồ sát ở Lữ Tống · Minh tây liên quân diệt Lâm Phụng· Chiến tranh Minh - Miến · Quáng thuế chi tệ · Án yêu thư(lần thứ nhất, lần thứ hai) · Án Sở phiên (Án Sở Thái tử, Án Sở tông kiếp cống)  · Ba vụ án thời Minh mạt (Án đĩnh kích, Án hồng hoàn, Án di cung· Đông Lâm đảng tranh · Quang Tông trung hưng · Người (Hà Lan) đông lai (Thẩm Hữu Dung dụ lui Hồng Mao phiên bi, Trận Bành Hồ, Hải chiến Minh Hà thời Sùng Trinh· Đạo Thiên Chúa du nhập (Tây học đông tiệm, Lợi mã đậu, Thánh giáo tam trụ thạch), Nam kinh giáo án, Sùng Trinh lịch thư, Kỉ Hà nguyên bản, Hồng di đại pháo· Từ Quang Khải với Nông chánh toàn thư · Kiến châu Nữ Chân phản Minh · Trận Tát Nhĩ Hử · Tam Hướng gia phái · Loạn Xa An · Dân biến Từ Hồng Nho · Hùng Đình Bật và Tôn Thừa Tông kháng Kim · Ngụy Trung Hiền thiện chánh (đảng Yêm) · Phục xã chi hưng · Vụ nổ Vương cung xưởng · Viên Sùng Soán đốc sư Kế, Liêu (Phòng tuyến Quan Ninh Cẩm, Trận Ninh Viễn, Trận Ninh Cẩm, tru sát Mao Văn Long) · Sùng Trinh trị loạn · Binh biến Ninh Viễn · Người Thanh xâm phạm kinh sư (Trận Kinh Kỳ, Tuân Viễn đại tiệp, Trận Tuyên Đại, Trận Kinh Kỳ lần thứ hai, Chiến dịch Bắc Trực Lệ và Sơn Đông, Chiến dịch Bắc Trực Lệ và Sơn Đông lần thứ hai) · Hải chiến Bì Đảo lần thứ nhất · lần thứ hai · Tẩu Tây Khẩu · Chính biến Kỉ Tị · Loạn Sa Định châu · Binh biến Ngô Kiều · Người Anh (Anh quốc) đông lai (Bức thư của Elizabeth I gửi cho Vạn Lịch Đế, Trận Hổ Môn· Từ Hà Khách du kí · Thiên tai liên tiếp (đê vỡ, dịch bệnh, thủy tai, hạn hán, châu chấu · Ngô Hữu Tính với Luận về ôn dịch · Trận Tùng Cẩm (Hồng Thừa Trù hàng Thanh, Tổ Đại Thọ hàng Thanh) · Minh mạt dân biến (Khởi nghĩa Vương Nhị, Khởi nghĩa Trương Hiến Trung, Khởi nghĩa Lý Tự Thành, Trận trấn Chu Tiên, Trận Phượng Dương, Đại hội Huỳnh Dương, Lý Tự Thành phá Khai Phong, Trận Mã Não Sơn, Trận Tương Dương) · Tôn Truyện Đình kháng kích Sấm tặc · Lô Tượng Thăng luyện quân Thiên Hùng · Dương Tự Xương diệt lưu khấu · Tào Văn Chiếu · Tam Thuận vương (Cung Thuận vương Khổng Hữu Đức, Hoài Thuận vương Cảnh Trọng Minh, Trí Thuận vương Thượng Khả Hỉ) · Giáp Thân nam thiên · Chính biến Giáp Thân · Trận Nhất Phiến Thạch · Tử ải tại Môi Sơn · Lý Tự Thành xưng đế · Ngô Tam Quế mở Sơn Hải quan
Nam Minh

Minh Trịnh
Nam Minh phân lập (Phúc vương, Lỗ vương, Đường vương, Duật Việt , Quế vương) · Chiến tranh nhập quan · Giang Bắc tứ trấn (Cao Kiệt, Hoàng Đắc Công, Lưu Trạch Thanh, Lưu Lương Tá· Chính biến Thanh châu · Đại Thuận diệt vong (Chiến dịch Đồng Quan, Chiến dịch Thiểm Bắc, Sấm vương bị giết) · Ba vụ án thời Nam độ (Án đại bi, Án giả Thái tử, Án Đồng phi) · Mã, Nguyễn đảng tranh · Tả Lương Ngọc thanh quân trắc · Liên Lỗ bình khấu · Chính biến Tuy châu · Lộ vương giám quốc · Trương Hiến Trung tiếm đế vị · Các cuộc đồ sát của quân Thanh ở Giang Nam (Dương châu thập nhất, Gia Định tam đồ, Giang Âm bát thập nhất nhật, Nam Xương chi đồ, Đại Đồng chi đồ, Đại đồ sát ở Tứ Xuyên, Quảng Châu chi đồ) · Phản Thanh phục Minh (Kim Thanh Hoàn, Vương Đắc Nhân ở Giang Tây phản chánh · Lý Thành Đống phản chánh ở Quảng Đông · Khương Tương phản chánh ở Đại Đồng · Mễ Lạt Ấn, Đinh Quốc Đống dẫn người Hồi ở Cam Túc khởi nghĩa · Tạ Thiên dựng cờ phản Thanh · Du Viên Quân dựng cờ phản Thanh · Vương Vĩnh Cương dựng cờ phản Thanh ở Thiểm Bắc · Hạ Trân, Tôn Thủ Pháp, Vũ Đại Định khởi nghĩa phản Thanh  · Vương Quang Cương, Vương Quang Ân, Vương Quang thái dựng cờ phản Thanh) · Liên khấu kháng Thanh · Hoàng Đạo Chu bắc phạt · Biến Tĩnh Phiên · Quân nông dân kháng Thanh (Trung Trinh doanh, Quỳ Đông thập tam gia, Diêu Hoàng thập tam gia, Tây Sơn thập tam gia, Đình Khê đại tiệp, Tự châu đại tiệp, Thần châu đại tiệp, Chiến dịch Hồ Nam, Quế Lâm đại tiệp, Hành Dương đại tiệp, Trận Bảo Ninh) · Hà Đằng Giao kinh doanh Hồ Nam · Cù Thức Tỉ, Trương Đồng Xưởng tuẫn quốc · Loạn Sa Định châu · Quân Đại Tây kinh doanh Vân Nam · Lý Định Quốc lưỡng quyết danh vương · Trương Hoàng Ngôn kháng thanh · Hồng Thừa Trù kinh lược Giang Nam · Chiến dịch Thiệu Khánh · Trận Tân Hội · Án 18 người · Trận Khúc Tĩnh · Thất bại Bảo Khánh · Tôn Khả Vọng đầu Thanh · Chiến dịch Trùng Khánh · Huyết chiến Ma Bàn Sơn · Nam Minh diệt vọng (trận Bác Lạc Bình, Phúc Kiến, Luân hãm Hồ Nam,Luân hãm Quý châu, Luân hãm Vân Nam) · Đại Tây diệt vong · Chiến dịch Chu Sơn · Nhất quan đảng · Trịnh Chi Long hàng Thanh · Trịnh Thành Công kháng Thanh(Trịnh gia quân, Quốc Tính gia bắc phạt, Chiến dịch Trường Giang, Chiến dịch Đồng An, Chiến dịch Triều châu, Tuyền châu đại tiệp, Chiến dịch Hạ Môn, Chiến dịch Hải Trừng, Quốc Tính gia chinh Đài  · Trịnh, Thi giao tranh (Sự kiện Tằng Đức) · Lỗ giám quốc kháng Thanh ở Chiết Mân · Chú Thủy chi nạn · Trận Đức Lặc · Quỳ Đông hội chiến · Chiến dịch Mao Lộc Sơn · Vương triều họ Trịnh (Trịnh Kinh giành quyền kế vị, Sự kiện Trịnh Thái, Thanh Hà liên quân công Trịnh, Đông Ninh chi biến) · Thiên giới cấm hải · Minh Trịnh diệt vong · Chu Thuật Quế tuẫn quốc · Người Minh HươngViệt Nam
Sử chuyên môn
Lịch sử · Chánh trị · Quân sự · Ngoại giao · Kinh tể · Văn hóa · Khoa học kĩ thuật · Quân chủ
Chú giải:Màu xanh lá chỉ những sự kiện có liên quan đên các nước phương Tây