Riccardo Montolivo

Riccardo Montolivo
Montolivo trong màu áo đội tuyển Ý tại UEFA Euro 2012
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Riccardo Montolivo[1]
Ngày sinh 18 tháng 1, 1985 (39 tuổi)[2]
Nơi sinh Caravaggio, Ý
Chiều cao 1,82 m (5 ft 11+12 in)[3]
Vị trí Tiền vệ
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1992–2003 Atalanta
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2003–2005 Atalanta 73 (7)
2005–2012 Fiorentina 219 (17)
2012–2019 Milan 129 (8)
Tổng cộng 421 (32)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2004–2006 U-21 Ý 19 (3)
2008 Olympic Ý 4 (1)
2007–2017 Ý 66 (2)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Ý
FIFA Confederations Cup
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Brasil 2013
Giải bóng đá vô địch châu Âu
Á quân Ba Lan & Ukraina 2012
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Riccardo Montolivo (phát âm tiếng Ý: [rikˈkardo montoˈlivo]; sinh ngày 18 tháng 1 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá người Ý chơi ở vị trí tiền vệ.

Là mẫu tiền vệ kiến thiết lối chơi sáng tạo và linh hoạt, Montolivo bắt đầu sự nghiệp tại Atalanta vào năm 2003 và chuyển tới Fiorentina vào 2005. Tại đây Montolivo có hơn 250 lần ra sân cho màu áo tím trong 7 năm trước khi chuyển tới A.C. Milan vào năm 2012 dưới dạng chuyển nhượng tự do. Sau mùa giải đầu tiên thi đấu thành công, Montolivo được trao băng đội trưởng Milan khi Massimo Ambrosini kết thúc hợp đồng với câu lạc bộ.

Montolivo có lần đầu khoác áo đội tuyển quốc gia năm 2007 trong trận gặp Nam Phi và đã góp mặt trong bốn giải đấu lớn là FIFA Confederatiosn Cup 2009, 2013, World Cup 2010Euro 2012; Montolivo cũng là thành viên đội tuyển Olympic Italia tham dự Thế vận hội Mùa hè 2008.

Sự nghiệp cấp câu lạc bộ

Atalanta

Montolivo trưởng thành từ lò đào tạo trẻ của Atalanta, anh có trận đầu tiên cho đội một khi vào sân thay người ở phút 81 trận gặp Piacenza tại Serie B[4]. Từ sau lần đầu tiên được đá chính trong trận thắng Hellas Verona 2-1[5], Montolivo chiếm một vị trí chính thức trong đội hình Atalanta[6] và có bàn thắng đầu tiên trong trận thắng Bari 2-0[7]. Kết thúc mùa giải Serie B 2003-04 Atalanta đứng thứ 5 và được lên hạng sau khi chiến thắng trong lượt play-off. Cuối mùa giải Inter Milan bày tỏ quan tâm tới Montolivo nhưng anh quyết định ở lại Atalanta[8]. Montolivo chơi tốt trong mùa giải đầu tiên của mình tại Serie A với 3 bàn thắng sau 32 trận đấu[9], nhưng Atalanta chỉ đứng chót bảng và pha xuống hạng[10].

Fiorentina

Montolivo, đội trưởng Fiorentina năm 2011

Mùa hè 2005, Fiorentina chiêu mộ Montolivo với giá 3.5 triệu € theo dạng đồng sở hữu[11], anh ký hợp đồng 5 năm và chọn số áo 18[12]. Montolivo không có nhiều cơ hội đá chính trong mùa giải đầu tiên tại câu lạc bộ mới, do anh vẫn là một cầu thủ trẻ còn non kinh nghiệm và huấn luyện viên Cesare Prandelli đang có trong tay một đội hình ổn định và gắn kết[13]. Montolivo có trận đấu đầu tiên trong màu áo tím gặp Inter Milan, Fiorentina thua 1-2[14]. Không được thi đấu thường xuyên nhưng Montolivo vẫn được huấn luyện viên Pierluigi Casiraghi triệu tập vào đội tuyển U-21 Ý và trở thành một nhân tố chủ chốt[13].

Mùa hè 2006, Fiorentina bị phạt trừ điểm tại Serie A do liên quan tới vụ scandal Calcipoli, nhưng vẫn quyết định ký hợp đồng sở hữu chính thức Montolivo với giá 2 triệu €[15]. Mùa giải thứ hai trải qua tốt đẹp với Montolivo khi anh bắt đầu chiếm vị trí chính thức với 36 lần ra sân và ghi 2 bàn[16].

Mùa giải 2007-08 bắt đầu rất tốt với Montolivo khi anh và cầu thủ chơi tốt nhất trong trận mở màn gặp Empoli, với bàn thắng rất đẹp từ một cú lốp bóng[17]. Trong mùa giải thứ 3 tại Fiorentina, Montolivo dần khẳng định mình là một trong những tài năng trẻ sáng giá nhất của bóng đá Ý thời điểm đó. Phong độ tốt giúp anh được triệu tập vào đội Olympic Italia tham dự Thế vận hội Bắc Kinh 2008.

Chấn thương tại Olympic khiến Montolivo bỏ lỡ trận khai màn mùa giải 2008-09 gặp Juventus[18]. Montolivo kết thúc mùa giải với 4 bàn thắng[19] và lần đầu tiên đeo băng đội trưởng Fiorentina trong trận thua 0-1 trước Milan ngày 17 tháng 1 năm 2009[20].

Mùa giải 2009-10, Monolivo trở thành đội trưởng Fiorentina ở tuổi 25 sau khi Dario Dainelli rời câu lạc bộ[21]. Montolivo thừa nhận sự ra đi của Dainelli và Martin Jørgensen phần nào làm suy yếu Fiorentina, nhưng sự xuất hiện của những Sébastien Frey hay Marco Donadel giúp Fiorentina đảm bảo một đội hình đủ sức cạnh tranh[21]. Mặc dù nhận được nhiều quan tâm từ các câu lạc bộ lớn, Montolivo tuyên bố Fiorentina là nhà và chỉ muốn ở lại[22] . Dù gặp chấn thương mắt cá chân và phải phẫu thuật[23], phong độ ổn định của Montolivo với 2 bàn thắng sau 29 trận giúp anh được triệu tập vào đội tuyển Italia tham dự World Cup 2010[24].

Mùa giải 2011-12, Montolivo thừa nhận mình sẽ rời Fiorentina khi hợp đồng kết thúc vào cuối mùa giải để gia nhập một đội bóng cân bằng và cạnh tranh cao hơn[25][26]. Montolivo bị tước băng đội trưởng và chuyển giao cho Alessandro Gamberini[27]. Trong mùa giải cuối cùng, Montolivo có trận đấu thứ 200 trong màu áo tím ngày 27 tháng 11 năm 2011, Fiorentina thua Palermo 0-2[28].

Milan

Montolivo và Kevin-Prince Boateng năm 2012

Tháng Năm 2012, huấn luyện viên trưởng A.C. Milan Massimiliano Allegri thông báo Montolivo có thể gia nhập câu lạc bộ vào cuối mùa dưới dạng chuyển nhượng tự do sau khi hợp đồng của anh với Fiorentina hết hạn vào 30 tháng Sáu[29][30]. Montolivo sau đó ký hợp đồng 4 năm với Milan[31] và tiếp tục chọn số áo 18, thừa kế từ Alberto Aquilani[32]. Mùa giải đầu tiên của Montolivo trải qua rất tốt khi anh thi đấu nổi bật trong trận derby với Internazionale[33], ghi bàn đầu tiên trong trận hòa 2-2 với Palermo, trận đấu mà Montolivo chỉ vào sân từ phút 69 khi đội nhà đang bị dẫn 0-2 nhưng đã ghi bàn giúp Milan kiếm được một trận hòa[34]. Montolivo kết thúc mùa giải đầu tiên với Milan khi trở thành một trong 2 cầu thủ ra sân nhiều nhất cho câu lạc bộ (cùng với Stephan El Shaarawy)[35], và có lần đầu tiên đeo băng đội trưởng trong trận thắng Juventus 1-0[36]. Ngày 11 tháng 6 năm 2013, Phó chủ tịch Milan Adriano Galliani tuyên bố Montolivo sẽ trở thành đội trưởng Milan trong mùa giải tới, sau khi đội trưởng Milan khi đó là Massimo Ambrosini tuyên bố không gia hạn hợp đồng với Rossoneri[37].

Đội tuyển quốc gia

Phong cách thi đấu

Montolivo là mẫu cầu thủ linh hoạt có khả năng thi đấu tại mọi vị trí trong hàng tiền vệ.[38] Vị trí sở trường của anh là tiền vệ kiến thiết lùi sâu, vị trí giúp anh phát huy những điểm mạnh của mình như lối chơi kỹ thuật, sáng tạo, nhãn quan chiến thuật và khả năng chuyền dài chuẩn xác[39]; bên cạnh đó Montolivo còn sở hữu những cú sút xa uy lực với độ chính xác cao.[40] Những năm gần đây, Montolivo được đánh giá cao nhờ lối chơi đồng đội, khả năng hỗ trợ phòng ngự tốt và chuyển hướng tấn công nhanh, những phẩm chất khiến huấn luyện viên Siniša Mihajlović nhiều khi sử dụng anh như một tiền vệ thu hồi bóng.[41] Montolivo đôi khi bị chỉ trích vì sự thiếu ổn định và lối chơi thiếu tốc độ.[42]

Đời tư

Montolivo có bố là người Ý và mẹ là người Đức [43]. Anh trai của Montolivo, Luca, là một luật sư [44]. Bên cạnh hộ chiếu Ý, Montolivo còn sở hữu hộ chiếu Đức. Montolivo có thể nói tiếng Đức rất tốt và tự nhận mình là người theo chủ nghĩa vô thần [43].

Thần tượng của Montolivo là Francesco Totti, Zinedine ZidaneFrank Lampard [44].

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Câu lạc bộ Mùa giải Giải VĐQG Cúp quốc gia Châu Âu Tổng
Giải đấu Số trận Số bàn thắng Số trận Số bàn thắng Số trận Số bàn thắng Số trận Số bàn thắng
Atalanta 2003–04 Serie B 41 4 1 0 0 0 42 4
2004–05 Serie A 32 3 6 0 0 0 38 3
2005–06 Serie B 0 0 2 0 0 0 2 0
Tổng 73 7 9 0 0 0 82 7
Fiorentina 2005–06 Serie A 20 1 2 0 0 0 22 1
2006–07 Serie A 36 2 0 0 0 0 36 2
2007–08 Serie A 34 2 2 0 11[a] 1 47 3
2008–09 Serie A 34 4 0 0 8[b] 0 42 4
2009–10 Serie A 36 2 4 0 10[c] 1 50 3
2010–11 Serie A 29 2 0 0 0 0 29 2
2011–12 Serie A 30 4 3 0 0 0 33 4
Tổng 219 17 11 0 29 2 259 19
Milan 2012–13 Serie A 32 4 1 0 6[c] 0 39 4
2013–14 Serie A 29 3 1 0 7[c] 0 37 3
2014–15 Serie A 10 0 2 0 - - 12 0
2015–16 Serie A 28 0 3 0 - - 31 0
2016–17 Serie A 9 0 0 0 9 0
2017–18 Serie A 18 1 3 0 5 2 26 3
2018–19 Serie A 0 0 0 0 0[d] 0 0 0
Tổng 129 8 10 0 18 2 158 10
Toàn sự nghiệp 421 32 30 0 47 4 499 36
  1. ^ Số trận tại UEFA Europa League
  2. ^ 6 trận tại UEFA Champions League, 2 trận tại UEFA Europa League
  3. ^ a b c Số trận tại UEFA Champions League
  4. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên uel

Quốc tế

Tính đến 5 tháng 9 năm 2017.
Đội tuyển Ý
Năm Số trận Số bàn thắng
2007 1 0
2008 2 0
2009 8 0
2010 8 0
2011 12 1
2012 9 1
2013 16 0
2014 2 0
2015 3 0
2016 3 0
2017 2 0
Tổng 66 2

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia

# Ngày Địa điểm Đối thủ Tỉ số Kết quả Giải đấu
1. 10 tháng 8 năm 2011 Sân vận động San Nicola, Bari, Ý  Tây Ban Nha 1–0 2–1 Giao hữu
2. 16 tháng 10 năm 2012 San Siro, Milano, Ý  Đan Mạch 1–0 3–1 Vòng loại FIFA World Cup 2014

Danh hiệu

Đội tuyển quốc gia

Italia[45]

Cá nhân

Tham khảo

  1. ^ “FIFA World Cup South Africa 2010 – List of Players” (PDF). Fédération Internationale de Football Association (FIFA). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Statistics
  3. ^ http://www.acmilan.com/it/teams/roster_player/2916
  4. ^ “Piacenza 0 Atalanta 0”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  5. ^ “Atalanta 2 Verona 1”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  6. ^ “Montolivo starting appearances”. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  7. ^ “Atalanta 2 Bari 0”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  8. ^ “Inter zainteresowany 'nowym Baggio'”. SerieA. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  9. ^ “Riccardo Montolivo stats”. Football Database. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  10. ^ “2004–05 Serie A”. RSSF. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
  11. ^ “Prandelli punta su Montolivo e Pazzini nati nell' Atalanta I viola contro i nerazzurri provano a lasciare quota zero”. Archiviostorico. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  12. ^ “Montolivo issued 18 no jersey”. Calciatori. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  13. ^ a b “Riccardo Montolivo – Profile”. UEFA. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012.
  14. ^ “Montolivo debut for Fiorentina”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  15. ^ “Prandelli punta su Montolivo e Pazzini nati nell' Atalanta I viola contro i nerazzurri provano a lasciare quota zero”. Archioviostorico. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  16. ^ “Montolivo zostanie w Fiorentinie”. Serie A. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  17. ^ “Riccardo Montolivo – Azzurri profile”. i-azzurri.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012.
  18. ^ “Montolivo wraca”. Serie A. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  19. ^ “Goals scored by Montolivo in 2008–09”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  20. ^ “Montolivo intervistato dal Guerino: "Voglio vincere con questa maglia!"”. Fiorentina.it. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  21. ^ a b “Riccardo Montolivo, gwiazda, a przy okazji nowym kapitan drużyny Fiorentiny stwierdził, iż nowa rola wiąże się dla niego z nową, ogromną presją”. Igol. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  22. ^ “Montolivo: Florencja to mój dom”. Serie A. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  23. ^ “Fiorentina Montolivo injury”. Notiziario. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  24. ^ “2010 FIFA World Cup Italy squad”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |https://web.archive.org/web/20160529075028/http://www.fifa.com/worldcup/archive/southafrica2010/teams/team= (trợ giúp)
  25. ^ “PRESIDENTE COGNIGNI SU MONTOLIVO: "LA FARSA È FINITA" FIRENZE, CENTRO SPORTIVO DEI 'CAMPINI'”. Viola channel. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  26. ^ “Montolivo-Fiorentina, rottura "Ha deciso, se ne vuole andare"”. Gazzetta. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  27. ^ “GAMBERINI È IL NUOVO CAPITANO”. Violachannel. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  28. ^ “Montolivo, 200 viola in A: "Soffiato a Juve e Milan. Il Real ..."”. Fiorentina. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  29. ^ “Milan confirm Montolivo deal”. Football Italia. ngày 12 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
  30. ^ “Montolivo to join Milan as Van Bommel departs”. Soccerway. Global Sports Media. ngày 12 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  31. ^ “A.C. MILAN COMUNICATO UFFICIALE: RICCARDO MONTOLIVO E BAKAYE TRAORE'”. AC Milan. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  32. ^ “8 NOCE-9 PATO-10 BOA”. AC Milan. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  33. ^ Edwards, Daniel (ngày 7 tháng 10 năm 2012). “AC Milan 0–1 Inter: Samuel header secures derby spoils for 10-man Nerazzurri”. Goal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  34. ^ “Palermo 2 vs 2 AC Milan – Match report”. Goal.com. ngày 30 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  35. ^ “MILAN'S MATCH MINUTES”. AC Milan. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  36. ^ “ABBIATI NON CE LA FA: AMELIA IN PORTA, MONTOLIVO CAPITANO”. AC Milan. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  37. ^ “ADRIANO GALLIANI: "RICCARDO MONTOLIVO SARÀ IL NOSTRO CAPITANO"”. AC Milan. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  38. ^ “Montolivo: "Italia-Germania per me è partita speciale"”. Tuttosport (bằng tiếng Ý). ngày 26 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  39. ^ Schlewitz, Kirsten (ngày 30 tháng 6 năm 2012). “Riccardo Montolivo: Finding His Place In Italy's Squad”. SB Nation. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012.
  40. ^ “Milan specialista nei tiri da fuori: solo il Real Madrid ha fatto meglio”. Goal.com. ngày 14 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016.
  41. ^ Ogo Sylla (ngày 21 tháng 11 năm 2015). “Allegri and the Juventus tactical conundrum”. La Gazzetta dello Sport. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016.
  42. ^ Marc Mayo (ngày 10 tháng 3 năm 2016). “Montolivo absence weighing heavily on AC Milan”. La Gazzetta dello Sport. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016.
  43. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Fiorentina interview
  44. ^ a b “Montolivo, in effetti è molto speciale” [Montolivo, in fact it is very special]. Archiovio. ngày 24 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
  45. ^ “R. Montolivo”. Soccerway. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  46. ^ “Oscar Assocalciatori Kakà miglior giocatore” (bằng tiếng Ý). La Gazzetta dello Sport. ngày 28 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  47. ^ “Wall of Fame”. Globe Soccer.com. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.

Liên kết ngoài

  • Riccardo Montolivo – Thành tích thi đấu FIFA
  • Riccardo Montolivo – Thành tích thi đấu tại UEFA
  • AIC (tiếng Ý)
  • FIGC (tiếng Ý)
Đội hình Ý
  • x
  • t
  • s
Đội hình bóng đá nam ÝThế vận hội Mùa hè 2008
  • 1 Viviano
  • 2 Motta
  • 3 De Ceglie
  • 4 Nocerino (c)
  • 5 Cigarini
  • 6 Criscito
  • 7 Montolivo
  • 8 Marchisio
  • 9 Rocchi
  • 10 Giovinco
  • 11 Rossi
  • 12 Dessena
  • 13 Coda
  • 14 Acquafresca
  • 15 Bocchetti
  • 16 De Silvestri
  • 17 Abate
  • 18 Consigli
  • 20 Candreva
  • 21 Russotto
  • Huấn luyện viên: Casiraghi
Ý
  • x
  • t
  • s
Đội hình ÝCúp Liên đoàn các châu lục 2009
Ý
  • x
  • t
  • s
Đội hình ÝGiải bóng đá vô địch thế giới 2010
Ý
  • x
  • t
  • s
Đội hình ÝGiải vô địch bóng đá châu Âu 2012
Ý
  • x
  • t
  • s
Đội hình ÝHạng ba Cúp Liên đoàn các châu lục 2013
Ý
  • x
  • t
  • s
AC Milan – đội hình hiện tại