Yesung

Yesung
예성
Yesung tại lễ khai mạc Liên hoan phim Quốc tế Tokyo 2016
Sinh24 tháng 8, 1984 (39 tuổi)
Seoul,  Hàn Quốc
Tên khácJerome Kim
Nghề nghiệp
Chiều cao1,78 m (5 ft 10 in)
Cân nặng64 kg (141 lb)
Trang webhttp://yesung.smtown.com/
Sự nghiệp âm nhạc
Tên gọi khácYesung
Thể loại
  • K-pop
  • R&B
  • Ballad
Nhạc cụ
  • Vocals
  • Piano
Năm hoạt động2005 – nay
Công ty quản lýSM Entertainment
Hãng đĩa
  • SM
  • Label SJ
Hợp tác với
Tên tiếng Hàn
Hangul
김종운
Hanja
金鐘雲
Romaja quốc ngữGim Jong-un
McCune–ReischauerKim Chongun
Hán-ViệtKim Chung Vân

Kim Jong-woon (Hangul: 김종운, Hanja: 金鐘雲, Hán-Việt: Kim Chung Vân, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1984), được biết đến với nghệ danh Yesung, là một nam ca sĩ, diễn viên, phát thanh viên và người dẫn chương trình truyền hình người Hàn Quốc. Anh là một trong ba giọng ca chính của nhóm nhạc nam Super Junior do SM Entertainment thành lập và quản lý.

Tiểu sử

Yesung sinh tại Seoul, Hàn Quốc. Anh có một em trai tên là Kim Jong Jin. Khi còn nhỏ anh đã bộc lộ niềm yêu thích đối với ca hát. Năm 1999, Yesung tham gia một cuộc thi hát trên truyền hình và đã đoạt giải vàng tại cuộc thi "Cheonan Singing Competition". Năm 2001, mẹ của Yesung đã đưa anh đến thử giọng cho chương trình "Starlight Casting System" của SM Entertainment - một buổi thử giọng để tuyển chọn nghệ sĩ cho công ty. Anh gây ấn tượng với ban giám khảo bằng giọng hát đầy nghệ thuật của mình và đã ký hợp đồng với SM Entertainment trong năm đó. Cuối năm 2004, Yesung đã được chọn là một thành viên trong nhóm nhạc dự án Super Junior.

Sự nghiệp âm nhạc

2005–2007: Ra mắt với Super Junior, buổi đầu sự nghiệp

Ngày 06 tháng 11 năm 2005, Yesung đã cùng Super Junior chính thức ra mắt trên chương trình âm nhạc Inkigayo của đài SBS, trình diễn đĩa đơn đầu tay "TWINS (Knock Out)". Album đầu tay của nhóm được phát hành một tháng sau đó, đứng vị trí thứ 3 trên các bảng xếp hạng âm nhạc lúc bấy giờ.[1]

Vào tháng 3 năm 2006, SM Entertainment bắt đầu tuyển thành viên cho Super Junior '06. Tuy nhiên kế hoạch thay đổi khi công ty thêm vào nhóm thành viên thứ 13 Kyuhyun và tuyên bố ngừng hình thành các thế hệ Super Junior tương lai. Nhóm đã bỏ hậu tố "'05" chính thức trở thành Super Junior. Nhóm nhạc 13 thành viên này đã giành thắng lợi lớn sau khi phát hành CD single đầu tiên "U" vào mùa hè năm đó - đĩa đơn thành công nhất của họ cho đến khi "Sorry Sorry" ra mắt vào tháng 3 năm 2009. Trong suốt sự nghiệp của mình với Super Junior, Yesung đã được đặt vào hai phân nhóm (các nhóm nhỏ của Super Junior). Trong tháng 11 năm 2006 Yesung đã được đặt trong phân nhóm đầu tiên của Super Junior, Super Junior-K.R.Y, một nhóm chuyên hát những ca khúc R&B Ballad.

2008–2013: Super Junior-H, Super Junior-K.R.Y, ra mắt tại Nhật Bản và tạm thời ngừng hoạt động

Ngày 10 tháng 5 năm 2008, Yesung đã được đưa đến bệnh viện sau khi anh gục ngã trong một cuộc chạy marathon từ thiện dài 70 km, có sự tham gia của các thành viên Shindong, Sungmin, Leeteuk, EunhyukKangin. Sau cú ngã, anh không thể hoàn thành quãng đường chạy và phải chống nạng lên sân khấu cùng các thành viên trong nhóm. Ngày 8 tháng 8, anh lại được đưa đến bệnh viện một lần nữa sau khi rơi khỏi sân khấu cao 1,5 m trong buổi tập cho chương trình Music Bank của đài KBS. Vết thương đã cắt đứt thương tích cũ từ cổ và thắt lưng và Yesung đã không được điều trị trong bệnh viện cho đến hai ngày sau đó.

Tháng 6 năm 2008, anh trở thành thành viên của nhóm nhỏ Super Junior-H, ra mắt mini album đầu tiên Cooking? Cooking!. Anh biểu diễn ca khúc "Love Really Hurts", một bài hát trong phim Tazza phát sóng năm 2008. Năm 2009, anh tham gia vở nhạc kịch đầu tiên, Namhansanseong. Vở được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Kim Hoon, dựa trên sự kiện Byeongja Horan tại Namhansanseong, Gyeonggi-do. Ngày 6 tháng 11 năm 2008, anh xuất hiện trên chương trình Music Bank cùng với Shinee, thay thế cho thành viên Jonghyun đang điều trị tại bệnh viện, trình diễn ca khúc "Ring Ding Dong".

Vào tháng 6 năm 2011, Yesung đã tham gia chương trình Immortal Song 2 của đài KBS. Yesung thua trong tập đầu tiên nhưng đã nhanh chóng trở thành người chiến thắng cuối cùng trong tập 3 với bài hát "The more that I love you" của huyền thoại Boohwal. Anh chỉ tham gia trong vài tập, sau đó do lịch trình bận rộn của Super Junior nên công ty quyết định rút anh ra khỏi chương trình.

Vào ngày 6 tháng 5 năm 2013, Yesung bí mật nhập ngũ, gia nhập quân đoàn dự bị Jeonbook Jeonju số 35. Anh đi thẳng vào xe quân sự và không ở lại giao lưu với người hâm mộ. Anh đã trải qua khóa huấn luyện cơ bản trong 4 tuần trước khi chính thức phục vụ trong quân đội 22 tháng với vai trò nhân viên phục vụ cộng đồng. Ngày 4 tháng 5 năm 2015 anh đã chính thức xuất ngũ sau gần hai năm phục vụ trong quân đội. Ngày xuất ngũ ban đầu của Yesung là ngày 5/5, tuy nhiên do ngày đó là ngày Tết thiếu nhi tại Hàn Quốc nên anh đã được xuất ngũ trước 1 ngày (4/5).

2014–2015: SM The Ballad, tiếp tục quay trở lại cùng với Super Junior

Ngày 15 tháng 7 năm 2015, Yesung cùng các thành viên trong nhóm đã comeback với special album mang tên "Devil" kỉ niệm 10 năm debut của Super Junior.

2016–nay: Sự nghiệp solo

Sang đầu năm 2016, Yesung đã có mini album solo đầu tay mang tên "Here I Am" được phát hành vào ngày 18 tháng 4 năm 2016. Đây cũng là sản phẩm đầu tay của Label SJ. Mini album cùng tên gồm 7 bài hát, trong đó Yesung tham gia đồng sáng tác 3 bài. Tuy không được quảng bá rộng rãi nhưng Here I Am đã đạt No.1 tại iTunes 4 quốc gia: Đài Loan, Thái Lan, Indonesia và Peru; đứng thứ 2 ở Nhật Bản, Macao, Singapore; thứ 3 ở Hong Kong, Malaysia và thứ 8 ở Mexico và Philippines. Ngoài ra, mini album cũng đứng đầu BXH album Kpop của 5 khu vực thuộc châu Á và đứng thứ 2 ở Mỹ. Lượng tiêu thụ album ở Hàn Quốc cũng rất ấn tượng khi anh đã đánh bại các nhóm nhạc đang nổi đình đám. Bên cạnh hoạt động quảng bá cho album, Yesung cũng tham gia chương trình King of masked singer, anh đã dành chiến thắng ở 2 vòng đầu. Tuy nhiên, thanh quản vẫn chưa được khỏi hoàn toàn nên khó có thể bước tiếp nên anh đã dừng tại vòng 3. Ngày 3/5, concert solo đầu tay của Yesung nhanh chóng cháy vé chỉ sau 1 phút mở bán, thể hiện được đẳng cấp của một nghệ sĩ nổi tiếng. Hiện tại, anh đang tham gia bộ phim Voice - truy tìm kẻ sát nhân (quay xong hồi tháng 12 năm 2016 và khởi chiếu vào ngày 14/1/2017). Bộ phim nhận được phản hồi tích cực từ những khán giả trên toàn thế giới.

Các hoạt động khác

Dẫn chương trình

Từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 9 năm 2007, Yesung là DJ cho chương trình phát thanh của riêng mình, M.I.R.A.C.L.E for You - nơi các thành viên của Super Junior thường xuyên tham gia với tư cách khách mời. Tuy nhiên, ngay trước lễ kỷ niệm đầu tiên của chương trình, Yesung đã phải kết thúc vai trò DJ để có thể tập trung vào album thứ hai của Super Junior,Don't Don. Buổi lên sóng cuối cùng cho chương trình là ngày 8 tháng 9 năm 2007[2]

Vào ngày 21 tháng 7 năm 2010 Yesung đã cùng một thành viên trong nhóm là Leeteuk trở thành MC cho chương trình "Love Pursuer" của đài MBC. Mọi người phải chọn một ngôi sao khác làm mẫu người lý tưởng sau đó lên kế hoạch theo đuổi và sau một tuần ngôi sao này sẽ phải đoán xem người hâm mộ bí mật của mình là ai. Chương trình đã mang đến rất nhiều điều thú vị cho khán giả.

Ngày 4 tháng 9 năm 2010, Yesung được chọn làm MC cho chương trình "MUZIT", một talk show về âm nhạc cùng với K.Will và nhạc sĩ kì cựu Yoo Youngsuk. Chương trình giới thiệu về các tài năng âm nhạc từ ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc.

Chương trình Radio

Ngày Tên Ghi chú
19 tháng 9 năm 2006–8 tháng 9 năm 2007 M.I.R.A.C.L.E for You Kết thúc ngay trước lễ kỉ niệm 1 năm
28 tháng 2 năm 2011–20 tháng 6 năm 2011 "Super Junior's Kiss the Radio" cùng với Leeteuk và thay thế tạm thời cho Eunhyuk

Chương trình truyền hình

Ngày Tên chương trình Ghi chú
25 tháng 6 năm 2009–2009 꼿미남 포차 (Flower Boys' Carriage)
21 tháng 7 năm 2010–tháng 3 năm 2011 러브 추격자 (Love Pursuer) cùng Leeteuk
ngày 4 tháng 9 năm 2010–2011 MUZIT

Diễn xuất

Sự nghiệp diễn xuất của Yesung bắt đầu vào mùa hè năm 2007 với bộ phim điện ảnh Attack on the Pin-Up Boys (Tấn công trai đẹp), một bộ phim hài về sinh viên trường trung học với sự tham gia của gần như toàn bộ thành viên Super Junior (chỉ trừ Kyuhyun – người đang nằm viện sau vụ tai nạn nghiêm trọng của Super Junior ngày 19 tháng 4). Yesung đóng vai ngôi sao nhạc Rock của trường - người đã bị tấn công một cách bí ẩn, để rồi nhờ đó anh trở nên nổi tiếng trên tầm quốc gia.

Năm 2009, Yesung được chọn đóng vai Jung Myung-soo trong vở nhạc kịch "Namhan san sung" (Pháo đài núi Nam Hàn), được trình diễn từ ngày 9 tháng 10 đến ngày 4 tháng 11 năm 2009[3]

Anh cũng tham gia vở nhạc kịch "Hong Gil Dong" cùng với một thành viên trong nhóm là Sungmin từ ngày 18 tháng 2 đến 18 tháng 4 năm 2010. Cả hai đều đóng vai Hong Gil Dong, thể hiện những khía cạnh khác nhau của vị anh hùng này.

Cũng vào năm này, Yesung được chọn vào vai Hiệp sĩ Galahad trong vở nhạc kịch "Spamalot" công chiếu từ ngày 1 tháng 10 đến 28 tháng 12 năm 2010. Vở nhạc kịch này đã nhận được nhiều phản hồi tốt từ phía khán giả. Yesung cũng nói rằng anh rất có hứng thú với nhạc kịch vì đó là một thử thách mới đối với anh và anh hy vọng sẽ được đóng nhiều hơn trong tương lai.[4]

Cuối năm 2015, anh tham gia bộ phim truyền hình "The Awl' (Bước Ngoặt) của đài JTBC.

Năm 2016, anh tham gia diễn xuất trong bộ phim rạp hợp tác Nhật - Hàn "My Korea Teacher" và nhận được nhiều lời nhận xét tích cực.

Đầu năm 2017, anh tham gia bộ phim truyền hình "Voice", một bộ phim trinh thám của đài OCN.

Phim tham gia

Năm Tên Vai Ghi chú
2007 Attack on the Pin-Up Boys
꽃미남 연쇄 테러 사건
Yesung phát hành giới hạn tại Hàn Quốc
2015 The Awl

송곳

Hwang Jun Chul
2016 My Korean Teacher

いきなり先生になったボクが彼女に恋をした

Young Woon
2017 Voice

보이스

Oh Hyun Ho

Nhạc kịch

Ngày Tên nhạc kịch Vai diễn Ghi chú
9 tháng 10– 4 tháng 11 năm 2009 남한산숭 (Pháo đài núi Nam Hàn) 정명수 (Jung Myungsoo)
18 tháng 2– 18 tháng 4 năm 2010 홍길동 (Hong Gil Dong) Hong Gil Dong cùng Sungmin
1 tháng 10 năm 2010– 28 tháng 12 năm 2010 스팸어랏 (Spamalot) Sir Galahad, the Dashingly Handsome

Hát nhạc phim

Yesung đã hát nhạc phim Tazza, một bộ phim có rating cao được khởi chiếu vào ngày 16 tháng 9 năm 2008. Bản ballad này - 사랑 참 아프다 (Love Really Hurts) - đã được sử dụng trong suốt bộ phim. Anh đã hát live bài này nhiều lần, kể cả trong Lễ kỷ niệm 3 năm của Super Junior. Vào ngày 6 tháng 11 năm 2009, anh thay thế Jonghyun của SHINee trong buổi diễn Ring Ding Dong do Jonghyun bị cúm A/H1N1.

Năm 2010, Yesung góp giọng trong soundtrack bộ phim "Cinderella's Sister" khởi chiếu từ ngày 31 tháng 3 năm 2010 với diễn viên chính là Moon Geun YoungTaecyeon của 2PM. Anh đã hát 너 아니면 안돼 (It has to be you). Bài hát này là một bản ballad kể về một chàng trai không quan tâm bất cứ cô gái nào khác, ngoại trừ người anh yêu. Trong lời chào kết thúc của Super Junior's 2nd Asia Tour Concert, Super Show 2 Manila, anh đã hát live bài hát này trên sân khấu và mong các fan sẽ ủng hộ các bài hát mới của anh. Sau đó vào ngày 4 tháng 6 năm 2010, Yesung đã lần đầu tiên biểu diễn solo trên khấu Music Bank bài hát It Has To Be You, bài hát đã đứng thứ hạng rất cao trên bảng xếp hạng của Music Bank.

Vào ngày 29 tháng 12 năm 2010, bản OST thứ 2 trong phim "President" của đài KBS đã được phát hành. Yesung đã cùng song ca với Luna của F(x) trong ca khúc "And I love you". Ca khúc này đã giành được nhiều sự chú ý và ủng hộ từ công chúng.

Vào ngày 31 tháng 1 năm 2011, bài hát solo thứ ba của Yesung lại là một bản OST trong bộ phim của đài SBS "Paradise Ranch" mang tên Waiting For You. Bài hát là một bản ballad nói về một chàng trai vẫn quyết tâm chờ đợi người yêu quay trở lại cho đến ngày tận cùng của thế giới. Bản thân bộ phim cũng đã nhận được nhiều sự chú ý nhờ sự tham gia của diễn viên Lee YeonheeDBSK Changmin. Yesung đã biểu diễn bài hát này lần đầu tiên tại Super Junior - K.R.Y the 1st concert in Seoul ngày 11 tháng 2 năm 2011.

Ngày Tựa đề Phim Ghi chú
2006 한 사람만을 (The One I Love) 하이에나 (Hyena) với nhóm nhỏ Super Junior K.R.Y
2006 The Night Chicago Died 하이에나 (Hyena) với nhóm nhỏ Super Junior K.R.Y
2006 걸음을 멈추고 (Stop Walking By) 눈꽃 (Snow Flower) với nhóm nhỏ Super Junior K.R.Y
2007 그것뿐이에요 (Just You) 빌리진 날봐요 (Billie Jean look at me)
2008 사랑 참 아프다 (Love Really Hurts) 타짜 (Tazza)
2009 꿈꾸는 히어로 (Dreaming Hero) 파트너 (Partner)
2010 너 아니면 안돼 (It Has To Be You) 신데렐라 언니 (Cinderella's Sister) bài hát nhạc phim hay nhất nhất 2010
2010 너를 사랑하고 (And I love you) 프레지던트 (President) song ca cùng Luna f(x)
2010 널 기다리며 (Waiting For You) 파라다이스 목장 (Paradise Ranch)
2011 그대뒤에 있습니다 (I Am Behind You) song ca cùng Jang Hye Jin
2011 단 하루만 (One Day) 무사 백동수 (Warrior Baek Dongsoo)
2012 꽃보다 그녀 (She Over Flowers) 아이두 아이두 (I DO I DO)
2015 꿈을 꾸다 (Dreaming a dream) 화정 (Hwajung)
2015 너무 그립다 (So much longing) 송곳 (The Awl)

Giải thưởng và đề cử

Năm Giải thưởng Đề cử Kết quả
2010 BGM Cyworld: Hall of Fame "It Has To Be You" Đoạt giải
2010 Cyworld Digital Music Awards: Bài hát của tháng (Tháng 4) "It Has To Be You" Đoạt giải
2010 25th Golden Disk Awards: Digital Bonsang "It Has To Be You" Đề cử
2010 25th Golden Disk Awards: Popularity Award "It Has To Be You" Đề cử
2010 2nd Melon Music Awards: Special Song OST Award "It Has To Be You" Đề cử
2011 Cyworld Digital Music Awards: Best OST Award "It Has To Be You" Đoạt giải

Tham khảo

  1. ^ “Album Sales of December 2005”. Recording Industry Association of Korea (bằng tiếng Triều Tiên). tr. 1. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ keiro.cafe24.com. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ 2007-09-26 tại Wayback Machine
  3. ^ [1][liên kết hỏng]. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2009.
  4. ^ [2]. Truy cập Aug 31st, 2010.

Liên kết ngoài

  • SM Entertainment Official Site
  • Super Junior Official Site Lưu trữ 2009-02-28 tại Wayback Machine
  • Super Junior Official Avex Site (tiếng Trung)
  • Super Junior Official Japanese Site (tiếng Nhật)
  • Super Junior-Happy Official Site Lưu trữ 2008-06-07 tại Wayback Machine
  • x
  • t
  • s
Nhóm nhỏ
Album phòng thu
Tiếng Hàn
Tiếng Nhật
  • Hero
  • Star
SJ-M
  • Me
  • Break Down
SJ-D&E
  • Ride Me
  • Countdown
Album đĩa đơn
  • The Road: Winter for Spring
Đĩa mở rộng
Tiếng Hàn
  • One More Time
Tiếng Nhật
  • I Think U
SJ-KRY
  • When We Were Us
SJ-M
  • Super Girl
  • Perfection
  • Swing
SJ-H
SJ-D&E
  • The Beat Goes On
  • Present
Phim tham gia
Điện ảnh
Truyền hình
Lưu diễn
Super Junior
Super Junior-KRY
  • Super Junior K.R.Y. The 1st Concert
  • Super Junior K.R.Y. Special Winter Concert
SM Town
  • SMTown Live '08
  • SMTown Live '10 World Tour
  • SMTown Live World Tour III
  • SM Town Live World Tour IV
Họp mặt người hâm mộ
  • Super Camp
Bài viết liên quan
  • x
  • t
  • s
Điều hành
  • Lee Soo-man (Chủ tịch và nhà sáng lập)
  • Lee Sung-soo (CEO)
  • Tak Young-jun (COO)
Công ty con
Hãng phim SM
Công ty tập đoàn
  • SM Entertainment Japan
  • Galaxia SM
  • SM Brand Marketing
    • Kwangya Club
    • SM Town Meta-Passport
Hãng đĩa
  • Baljunso
  • Label SJ
  • ScreaM Records
  • SM Classics
Không còn tồn tại
  • SM Art Company
  • SM F&B Development
Concert tour
  • SMTOWN Live
    • SMTOWN Live '10 World Tour
    • SMTOWN Live World Tour III
    • SMTOWN Live World Tour IV
    • SM Town Live 2022: SMCU Express
  • SMTOWN Week
  • The Agit
  • Beyond Live
Chủ đề liên quan
  • Thể loại Thể loại
Dữ liệu nhân vật
TÊN Kim, Jongwoon
TÊN KHÁC Yesung
TÓM TẮT Hàn Quốc ca sĩ
NGÀY SINH 24 tháng 8 năm 1984
NƠI SINH Hàn Quốc
NGÀY MẤT
NƠI MẤT