Thúc Trọng Hội

Thúc Trọng Hội (tiếng Trung: 叔仲會; bính âm: Shuzhong Hui; 497 TCN-?)[1], họ kép Thúc Trọng, tên Hội[2], tự Tử Kỳ (子期), tôn xưng Thúc Trọng Tử (叔仲子) người nước Lỗ hoặc nước Tấn thời Xuân thu, là một trong thất thập nhị hiền của Nho giáo.

Cuộc đời

Thúc Trọng Hội nhỏ hơn Khổng Tử 54 tuổi, thuộc gia tộc Thúc Trọng nước Lỗ, chấp bút theo hầu Khổng Tử.[3]

Tư Mã Trinh cho rằng Thúc Trọng Hội là người nước Tấn.[4] Theo Tả truyện, năm 502 TCN, gia chủ Thúc Trọng thị nước Lỗ là Thúc Trọng Chí theo Dương Hổ chống lại Tam Hoàn. Dương Hổ thất bại, trốn sang nước Tấn.[5] Có khả năng Thúc Trọng Hội là hậu duệ của Thúc Trọng Chí trốn theo Dương Hổ.

Năm 72, thời Hán Minh Đế, Thúc Trọng Hội được phối thờ trong Khổng miếu.

Tham khảo

  • Thúc Trọng Chí

Chú thích

  1. ^ Tư Mã Thiên, Sử ký, Trọng Ni đệ tử liệt truyện.
  2. ^ Chữ 會 có hai phiên âm Hội (huì, guì) và Cối (kuài).
  3. ^ Vương Túc, Khổng Tử gia ngữ, quyển 9.
  4. ^ Tư Mã Trinh, Sử ký sách ẩn.
  5. ^ Tả Khâu Minh, Tả truyện, Định công năm thứ 8.
  • x
  • t
  • s
Khổng Môn Thập triết
Đức hạnh
Ngôn ngữ
Chính sự
Văn học
Thất thập nhị hiền
Môn đệ khác
  • Tần Nhiễm (zh)
  • Tiêu Đan (zh)
  • Nhan Hà
  • Cầm Lao (zh)
  • Trần Cương (zh)
  • Huyện Đản (zh)
  • Lâm Phóng
  • Cừ Bá Ngọc (zh)
  • Mục Bì (zh)
  • Tả Khâu Minh
  • Trọng Tôn Hà Kỵ (zh)
  • Tử Phụ Hà (zh)
  • Bá Ngư (zh)
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s