Tương Bạch kỳ

Tương Bạch kỳ

Tương Bạch kỳ (tiếng Mãn: ᡴᡠᠪᡠᡥᡝ
ᡧᠠᠩᡤᡳᠶᠠᠨ
ᡤᡡᠰᠠ
, Möllendorff: kubuhe šanggiyan gūsa, Abkai: kubuhe xanggiyan gvsa, tiếng Trung: 鑲白旗; tiếng Anh: Bordered White Banner) là một kỳ thuộc chế độ Bát Kỳ của Thanh triều và được quản lý bởi Kỳ chủ, lấy cờ sắc trắng viền đỏ làm tên gọi, cùng với Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Chính Lam kỳTương Lam kỳ thuộc Hạ Ngũ kỳ.

Giản lược

Khoảng những năm 1601, Nỗ Nhĩ Cáp Xích dựa theo chế độ "Mãnh an mưu" của người Nữ Chân, quy định ra Biên chế cơ bản cho Bát kỳ, sau đó lại đặt ra 4 Kỳ phân biệt theo màu cờ hiệu là Hoàng (Suwayan), Bạch (Sanggiyan), Hồng (Fulgiyan), Lam (Lamun). Bạch kỳ được giao cho Chử Anh - con trai trưởng đồng thời là người thừa kế được chỉ định của Nỗ Nhĩ Cáp Xích.

Về sau, khi thống nhất hoàn toàn các bộ lạc Nữ Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tổ chức tăng thêm bốn kỳ nữa. Các kỳ cũ được thêm danh xưng Chính (Gulu, không có viền), còn các kỳ mới có thêm màu viền trên cờ hiệu là có thêm danh xưng Tương (Kubuhe, có viền), gọi là Tương Hoàng kỳ, Tương Lam kỳ, Tương Bạch kỳ, Tương Hồng kỳ. Đồng thời, năm 1615, Chử Anh bị dèm pha nên đã bị Nỗ Nhĩ Cáp Xích bắt giam và bức tử. Nỗ Nhĩ Cáp Xích giao lại Tương Bạch kỳ cho trưởng tôn Đỗ Độ - con trai trưởng của Chử Anh và Chính Bạch kỳ giao lại cho người con trai thứ 8 là Hoàng Thái Cực.

Sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích mất, con trai là Hoàng Thái Cực trở thành Đại Hãn. Hoàng Thái Cực lấy lý do hai Hoàng kỳ vốn thuộc sở hữu của Đại Hãn nên đã đổi hai Bạch kỳ với hai Hoàng kỳ, bản thân ông từ đó nắm giữ hai Hoàng kỳ, Đa Đạc từ Kỳ chủ Tương Hoàng kỳ trở thành Kỳ chủ Chính Bạch kỳ, A Tế CáchĐa Nhĩ Cổn từ Kỳ chủ Chính Hoàng kỳ trở thành Kỳ chủ Tương Bạch kỳ.

Năm Sùng Đức thứ 8 (1643), Hoàng Thái Cực qua đời. Sau khi Thuận Trị Đế lên ngôi, Đa Nhĩ Cổn trở thành Nhiếp chính vương, tiến hành cải biên hai Bạch kỳ, Đa Đạc và A Tế Cách cùng chia nhau Tương Bạch kỳ, Đa Đạc trở thành Đại kỳ chủ của Tương Bạch kỳ, A Tế Cách là Tiểu Kỳ chủ.

Năm Thuận Trị thứ 5 (1648), Đa ĐạcHào Cách đều qua đời, Đa Nhĩ Cổn diễn một màn đổi kỳ, đem Chính Lam kỳ của Hào Cách quy vào của mình, sau đó lại tiếp tục lấy Chính Lam kỳ đổi lấy Tương Bạch kỳ của Đa Đạc. Kết quả, Đa Ni (con trai Đa Đạc) nắm giữ Chính Lam kỳ, còn Đa Nhĩ Cổn tự mình độc chiếm hai Bạch kỳ.

Năm thứ 7 (1650), Đa Nhĩ Cổn qua đời, Thuận Trị Đế bắt đầu thân chính. Để tăng cường Hoàng quyền, ông đích thân nắm giữ Chính Bạch kỳ vốn thuộc về Đa Nhĩ Cổn, trả Tương Bạch kỳ (vốn là Chính Lam kỳ cũ) cho hậu duệ Hào Cách. Từ đó, Túc vương phủ là Kỳ chủ của Tương Bạch kỳ.

Thông tin

Tương Bạch kỳ
Binh lực Tổng nhân khẩu Kỳ chủ Lĩnh chủ
84 Tá lĩnh, binh lực ước chừng 36,000 tả hữu Khoảng 230,000 Túc Thân vương Thuần Thân vương

Danh nhân thuộc Tương Bạch kỳ

Mãn Châu

Mông Cổ

  • Minh An Đồ

Xem thêm

Tham khảo

  • Kim Thụ Thân (1999). Bắc Kinh thông. Nhà xuất bản Văn nghệ quần chúng. ISBN 9787800946578.
  • “Bát kỳ Sử thoại”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2020.
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s
  • x
  • t
  • s
Kỳ
Thượng tam kỳ
Hạ ngũ kỳ



Kỳ chủ
Thượng tam kỳ
Hạ ngũ kỳ
Cơ cấu tổ chức
Kỳ > Tham lĩnh > Tá lĩnh · Quản lĩnh · Trang đầu
Tầng lớp
Hoàng Đế (Hãn) ≥ Kỳ chủ > Lĩnh chủ > Kỳ phân Tá lĩnh hạ nhânBao y Tá lĩnh Quản lĩnh hạ nhân > Kỳ hạ Gia nô
Tộc duệ
Ngoại Tá lĩnh
Mãn Châu · Mông Cổ · Hán Quân
Nội Tá lĩnh
Mãn Châu · Kỳ cổ · Cao Ly · Hồi Tử · Phiên tử
Khác
Sát Cáp Nhĩ · Tích Bá · Sách Luân · Bố Đặc Cáp · Tân Ba Nhĩ Hổ · Đạt Mộc
Chú 1: Thứ tự Kỳ chủ Bát kỳ căn cứ theo định chế cuối cùng thời Thuận Trị. Trong Hạ ngũ kỳ, ngoại trừ các Thiết mạo tử vương là Kỳ chủ, những Vương, Bối lặc, Bối tử cùng các Tông thất Nhập bát phân khác cũng đảm nhậm Lĩnh chủ lớn nhỏ khác nhau trong mỗi kỳ.
Chú 2: Chỉ có Nội vụ phủ Tam kỳ mới có Cao Ly, Hồi Tử, Phiên Tử. Phiên Tử Tá lĩnh nhập vào trong Mãn Châu Chính Hoàng kỳ vào năm Càn Long thứ 42 (1777), Quản lĩnh lẫn lộn vào, không thuộc vào danh sách tộc chúc.