Kinh tế học chuẩn tắc

Bài viết này trong loại bài
Kinh tế học

  Các nền kinh tế theo vùng 

Châu Phi · Bắc Mỹ
Nam Mỹ · Châu Á
Châu Âu · Châu Đại Dương

Đề cương các chủ đề
Phân loại tổng quát

Kinh tế học vi mô · Kinh tế học vĩ mô
Lịch sử tư tưởng kinh tế
Lý luận · Các phương pháp không chính thống

Các phương pháp kỹ thuật

Toán học · Kinh tế lượng
Thực nghiệm · Kế toán quốc gia

Lĩnh vực và tiểu lĩnh vực

Hành vi · Văn hóa · Tiến hóa
Tăng trưởng · Phán triển · Lịch sử
Quốc tế · Hệ thống kinh tế
Tiền tệ Tài chính
Công cộng Phúc lợi
Sức khỏe · Nhân lực · Quản lý
Quản trị · Thông tin · Tổ chức · Lý thuyết trò chơi
Lý thuyết tổ chức ngành · Luật pháp
Nông nghiệp · Tài nguyên thiên nhiên
Môi trường · Sinh thái
Đô thị · Nông thôn · Vùng

Danh sách

Tạp chí · Ấn bản
Phân loại · Các chủ đề · Kinh tế học gia

Các tư tưởng kinh tế 

Vô chính phủ · Tư bản
cộng sản · Tập đoàn
Phát-xít · Gióc-giơ
Hồi giáo · Laissez-faire
Chủ nghĩa xã hội thị trường · Trọng thương
Bảo hộ · Xã hội
Chủ nghĩa công đoàn · Con đường thứ ba

Ăng-lô - Xắc-xông · Phong kiến
Toàn cầu · Săn bắn-hái lượm
Nước công nghiệp mới
Cung điện · Trồng trọt
Hậu tư bản · Hậu công nghiệp
Thị trường xã hội · Thị trường chủ nghĩa xã hội
Token · Truyền thống
Thông tin · Chuyển đổi

Chủ đề Kinh tế học
Hộp này:
  • xem
  • thảo luận
  • sửa

Kinh tế học chuẩn tắc (tiếng Anh: Normative economics) (trái ngược với kinh tế học thực chứng) là một phần của kinh tế học có mục tiêu là công bằng hoặc kết quả của nền kinh tế hoặc mục tiêu của chính sách công phải là.[1] Kinh tế học chuẩn tắc chú ý tới sự đáng có của những mặt nhất định của nền kinh tế. Nó nhấn mạnh sự cần thiết có các chính sách kinh tế.

Các nhà kinh tế học thường thích phân biệt kinh tế học chuẩn tắc ("điều gì nên là" trong các vấn đề kinh tế) với kinh tế học thực chứng ("điều gì là"). Tuy nhiên, nhiều phán đoán (giá trị) quy chuẩn được đưa ra có điều kiện, sẽ được từ bỏ nếu sự kiện hoặc kiến thức về sự kiện thay đổi, do đó, sự thay đổi giá trị có thể hoàn toàn là khoa học.[2] Mặt khác, nhà kinh tế học phúc lợi Amartya Sen tách biệt những phán đoán cơ bản (chuẩn tắc), những phán đoán không phụ thuộc vào kiến thức như vậy, với những phán đoán phi cơ bản. Ông cảm thấy thú vị khi lưu ý "không có phán đoán nào là cơ bản một cách rõ ràng" trong khi một số phán đoán giá trị có thể được chứng minh là không cơ bản. Điều này mở ra khả năng thảo luận khoa học hiệu quả về các phán đoán giá trị.[3]

Kinh tế học thực chứng và chuẩn tắc thường được tổng hợp theo kiểu chủ nghĩa duy tâm thực tiễn. Trong bộ môn này, đôi khi được gọi là "nghệ thuật kinh tế học", kinh tế học chuẩn tắc được sử dụng như một công cụ thực tế để đạt được các mục tiêu chuẩn tắc, thường liên quan đến những thay đổi chính sách hoặc tình trạng của vấn đề.

Ví dụ về một báo cáo kinh tế chuẩn tắc như sau:

Giá sữa phải là 6 đô la một gallon để mang lại cho những người nông dân chăn nuôi bò sữa mức sống cao hơn và để cứu trang trại của gia đình.

Đây là một tuyên bố mang tính quy phạm, bởi vì nó phản ánh các phán đoán giá trị. Tuyên bố cụ thể này đưa ra nhận định rằng nông dân xứng đáng có mức sống cao hơn và các trang trại gia đình phải được cứu.[1]

Kinh tế học chuẩn tắc tự dự đoán khi tối đa hóa cả tác nhân tiện ích xã hội và chính trị, được công nhận là "lợi ích tổng hợp".

Các lĩnh vực con của kinh tế học chuẩn tắc bao gồm lý thuyết lựa chọn xã hội, lý thuyết trò chơi hợp tác và thiết kế cơ chế.

Một số vấn đề kỹ thuật trước đó đặt ra trong kinh tế học phúc lợicông lý đã được giải quyết đầy đủ để dành chỗ cho việc xem xét các đề xuất trong các lĩnh vực ứng dụng như phân bổ nguồn lực, chính sách công, chỉ số xã hội và đo lường sự bất bình đẳng và nghèo đói. [4]

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ a b Paul A. Samuelson and William D. Nordhaus (2004). Economics, 18th ed., pp. 5-6 & [end] Glossary of Terms, "Normative vs. positive economics."
  2. ^ Stanley Wong (1987). "Positive economics," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 3, p. 21.
  3. ^ Amartya K. Sen (1970), Collective Choice and Social Welfare, pp. 61, 63-64).
  4. ^ Marc Fleurbaey (2008). "Ethics and economics," The New Palgrave Dictionary of Economics. Abstract.

Tham khảo

  • Andrew Caplin và Andrew Schotte, ed. (2008). The Foundations of Positive and Normative Economics: A Handbook, Oxford. Description and preview.
  • Marc Fleurbaey (2004). "Normative Economics and Theories of Distributive Justice," The Elgar Companion to Economics and Philosophy, J.B. Davis and J. Runde, ed., pp. 132-58.
  • _____ (2008). "Ethics and economics," The New Palgrave Dictionary of Economics. Abstract.
  • Milton Friedman (1953). "The Methodology of Positive Economics," Essays in Positive Economics
  • John C. Harsanyi (1987), “Value judgments," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 4, pp. 792–93
  • Daniel M. Hausman and Michael S. McPherson (1996). Economic Analysis and Moral Philosophy, Cambridge: Cambridge University Press.
  • Phillipe Mongin (2002). "Is There Progress in Normative Economics?" in Stephan Boehm et al., eds., Is There Progress in Economics?, pp. 145-170.
  • Amartya K. Sen (1970), Collective Choice and Social Welfare. "5.3 Basic and Nonbasic Judgments" & "5.4 Facts and Values," pp. 59–64.
  • Stanley Wong (1987). “Positive economics," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 3, pp. 920–21.
  • Silvestri P. (ed.), L. Einaudi, On Abstract and Historical Hypotheses and on Value judgments in Economic Sciences, Critical edition with an Introduction and Afterword by Paolo Silvestri, Routledge, London - New York, 2017. DOI: https://doi.org/10.4324/9781315457932.
  • x
  • t
  • s
Kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vi mô
Các phân ngành
Phương pháp luận
Lịch sử
tư tưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học
nổi tiếng
Các tổ chức quốc tế
  • Category
  • Index
  • Lists
  • Outline
  • Publications
    Business and economics portal