Kim So-yeon

Kim So-yeon
김소연
Kim So-yeon vào tháng 3 năm 2019
Sinh2 tháng 11, 1980 (43 tuổi)
Seoul, Hàn Quốc
Học vịĐại học Dongguk (ngành sân khấu điện ảnh)
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1994–nay
Người đại diệnJ Wide-Company
Phối ngẫu
Lee Sang-woo (cưới 2017)
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
김소연
Hanja
金素姸
Romaja quốc ngữGim So-yeon
McCune–ReischauerKim Soyŏn
Hán-ViệtKim Tố Nghiên

Kim So-yeon (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1980) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô được biết đến nhiều nhất qua những vai diễn trong nhiều bộ phim truyền hình nổi tiếng, trong đó có All About Eve (2000), Mật danh Iris (2009), Prosecutor Princess (2010), Happy Home (2016) và Cuộc chiến thượng lưu (2020).

Sự nghiệp

Kim So-yeon bắt đầu hoạt động trong ngành giải trí vào năm 1994 ở tuổi 14 khi tham gia cuộc thi hoa khôi Binggrae mà không được sự cho phép của bố mẹ.[1] Không lâu sau vai diễn đầu tiên của mình trong Dinosaur Teacher, cô thủ vai chính trong một số bộ phim truyền hình nổi tiếng như Reporting for Duty (1996) và Soonpoong Clinic (1998), đồng thời dẫn chương trình cho chương trình âm nhạc Inkigayo và xuất hiện trong nhiều phim quảng cáo (Kim Soyeon là ngôi sao nhí đầu tiên tại Hàn Quốc có thu nhập trên 100 triệu ₩ từ việc làm người mẫu quảng cáo).[1] Vì ngoại hình và phong thái trưởng thành trước tuổi, cô thường được giao những vai diễn già dặn, điển hình là vai một biên tập viên thời sự phản diện trong All About Eve, một bộ phim được phát sóng vào năm 2000 và đạt tỷ suất người xem 45,2%.[2]

Tuy nhiên, việc luôn đảm nhận những vai diễn lạnh lùng, nghiêm nghị đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp của Kim, và độ nổi tiếng của cô bắt đầu xuống dốc từ giữa thập niên 2000. Nỗ lực lấn sân sang thị trường Trung Quốc của cô qua những vai diễn trong bộ phim điện ảnh võ hiệp Seven Swords của đạo diễn Hồng Kông Từ Khắc và một số bộ phim truyền hình Trung Quốc như Cánh bướm xinh đẹp với Nhậm Tuyền cũng không mang lại thành công.[3][4] Do đó, Kim tạm ngưng việc diễn xuất trong ba năm để suy nghĩ về việc có tiếp tục làm diễn viên hay không.[5] Cô quay trở lại màn ảnh nhỏ vào năm 2008 trong bộ phim truyền hình Gourmet được chuyển thể từ manhwa cùng tên của Huh Young-man.[6]

Một năm sau đó, sự nghiệp của Kim khởi sắc trở lại khi cô xuất hiện trong bộ phim truyền hình bom tấn Mật danh Iris.[6][7] Cô cắt ngắn mái tóc dài quen thuộc và tập luyện các cảnh hành động cho vai diễn của mình, một gián điệp của Triều Tiên. Cô nhận được khen ngợi vì đã thể hiện được một người phụ nữ bị giằng xé giữa lòng trung thành với tổ quốc và tình yêu cô dành cho một điệp viên Hàn Quốc.[8][9] Sau đó Kim tiếp tục đảm nhận vai diễn này trong Iris the Movie, Athena: Goddess of War (2010) và Iris II (2013).[10]

Năm 2010, Kim được giao vai chính trong bộ phim truyền hình hài lãng mạn Prosecutor Princess và cho thấy sự đa dạng trong diễn xuất của mình qua vai diễn được lấy cảm hứng từ Legally Blonde, một công tố quận tưởng chừng như chỉ thích mua sắm và hẹn hò nhưng thực ra rất thông minh và luôn đi tìm công lý.[11][12][13] Kim cho biết sự vui vẻ và khó đoán của nhân vật rất giống với tính cách ngoài đời của cô.[14][15][16] Cũng trong năm 2010, cô vào vai một bác sĩ nghiêm nghị trong bộ phim truyền hình thể thao Dr. Champ.[17]

Năm 2012, Kim xuất hiện trên màn ảnh rộng với vai diễn một người pha chế cà phê bị cuốn vào âm mưu ám sát Hoàng đế Cao Tông trong Gián điệp hoàng cung, một bộ phim điện ảnh được chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Kim Takhwan.[18][19] Cô đã dành nhiều tháng học tiếng Nga và luyện tập pha chế cà phê trước khi phim bắt đầu ghi hình.[20] Gián điệp hoàng cung là bộ phim điện ảnh Hàn Quốc đầu tiên của Kim sau 15 năm kể từ Change (1997).[1][21][22] Sau đó cô tiếp tục xuất hiện trong bộ phim truyền hình cổ trang The Great Seer với vai diễn một thầy thuốc thời Cao Ly.[23]

Kim tiếp tục hợp tác với So Hyun-kyung, biên kịch của Prosecutor Princess, trong bộ phim truyền hình Phải sống (2013). Cô thủ vai một công tố viên hợp tác với một tên tội phạm đào tẩu nhằm hạ bệ một chính trị gia tham nhũng và những tay sai của bà ta.[5][24]

Năm 2014, cô thủ vai một quản lý kinh doanh thời trang trong bộ pgim truyền hình I Need Romance 3.[25][26][27] Sau đó cô xuất hiện trong tập đặc biệt của chương trình truyền hình thực tế Real Men.[28]

Năm 2015, cô thủ vai chính trong bộ phim truyền hình cáp thứ hai của mình, Beating Again, với nội dung về một doanh nhân phải lòng thư ký của mình sau khi được cấy ghép tim.[29] Kim cũng tham gia mùa thứ tư của chương trình truyền hình thực tế We Got Married bên cạnh Kwak Si-yang.[30]

Năm 2016, Kim thủ vai chính trong bộ phim truyền hình cuối tuần Happy Home. Cô vào vai một người mẹ đã mất con trai của mình sau một vụ tai nạn.[31]

Tháng 3 năm 2018, Kim rời khỏi công ty quản lý Namoo Actors và sau đó ký hợp đồng độc quyền với J Wide Company vào ngày 3 tháng 4.[32] Sau đó cô xuất hiện trong bộ phim truyền hình cuối tuần Secret Mother của đài SBS.[33][34]

Tháng 3 năm 2019, Kim quay trở lại màn ảnh nhỏ trong bộ phim truyền hình cuối tuần Con gái của mẹ của đài KBS.[35][36]

Năm 2020, Kim xuất hiện trong bộ phim truyền hình Cuộc chiến thượng lưu, bắt đầu phát sóng trên kênh SBS TV từ ngày 26 tháng 10.[37]

Đời tư

Ngày 6 tháng 9 năm 2016, Kim được xác nhận là đang hẹn hò với nam diễn viên Lee Sang-woo. Hai người gặp nhau khi cùng tham gia bộ phim truyền hình Happy Home của đài MBC. Ngày 28 tháng 3 năm 2017, hai người được thông báo là sẽ kết hôn vào tháng 6 năm 2017.[38]

Danh sách phim

Phim truyền hình

Năm Tên Vai Kênh
1994 Dinosaur Teacher SBS
Daughters of a Rich Family Hye-ri (con gái của Kwon Il-ryung) KBS2
1995 Drama Game "Min-woo vs. Min-woo"
Drama Game "Their Summer"
1996 You Can't Stop Mom Con gái cả SBS
Drama Game "Come Back Home" Park Mi-kyung KBS2
City Men and Women Yoo Won-hee SBS
1.5 MBC
Reporting for Duty Woo Ji-soo KBS2
Open Your Heart Jung Yoo-kyung MBC
Seven Spoons Hye-joo
1997 Because of Love KBS2
Drama Special "Christmas in May"
Yesterday Lee Seung-hye MBC
Friday Night Theater "On Her First Night" KBS2
1998 Soonpoong Clinic Oh So-yeon SBS
I Love You, I Love You Lee Soon-young
Winners Kim Seo-joo
1999 Sunday Best "Pickpocket by Name" Kim Ji-hyun KBS2
We Saw a Little Lost Bird Seo Ga-hee
Ad Madness Lee Ye-rin
2000 Tình yêu trong sáng Heo Young-mi MBC
Mom and Sister Noh Seung-ri / Jang Yoo-kyung
2002 Sunlight Upon Me Kim Yeon-woo
Trio Choi Seo-young
2004 2004 Human Market Hong Si-yeon SBS
Cánh bướm xinh đẹp Jin Zhi Xiu CCTV
2005 Autumn Shower Lee Kyu-eun MBC
2007 Anhui Merchants Hu Yu Ling DTV
2008 Gourmet Yoon Joo-hee SBS
2009 Mật danh Iris Kim Seon-hwa KBS2
2010 Prosecutor Princess Ma Hye-ri SBS
Dr. Champ Kim Yeon-woo
Athena: Goddess of War Kim Seon-hwa (cameo, tập 17 & 19)
2012 The Great Seer Hae-in
2013 Iris II Kim Seon-hwa (cameo, tập 20) KBS2
Phải sống Park Jae-kyung MBC
2014 I Need Romance 3 Shin Joo-yeon tvN
2015 Tình yêu thuần khiết Kim Soon-jung jTBC
High-End Crush Biên tập viên kênh giải trí (cameo) Naver TV Cast
2016 One More Happy Ending Người phụ nữ đã ly hôn (tập 1) MBC
Happy Home Bong Hae-ryung
2017 20th Century Boy and Girl Giám đốc Kim (Cameo)
2018 Bí mật sau lưng mẹ Kim Lisa SBS
2019 Con gái của mẹ Kang Mi-ri KBS2
2020–21 Cuộc chiến thượng lưu Cheon Seo-jin SBS
2021 Cuộc chiến thượng lưu 2
Cuộc chiến thượng lưu 3
2023 Bạn trai tôi là hồ ly 2 Ryu Hongju

Phim điện ảnh

Năm Tên Vai
1997 Change Ko Eun-bi
2005 Seven Swords Luzhu/Green Pearl
2007 The Pictures (phim ngắn) Photographer
2010 Iris the Movie Kim Seon-hwa
2012 Gián điệp hoàng cung Tanya
2015 Love Forecast Bạn gái cũ 1 của Kang Joon-soo (cameo)

Chương trình truyền hình

Năm Tên Kênh Ghi chú
1997 Inkigayo (Popular Music) Best 50 MBC MC
1998-2000 Inkigayo (Popular Music) SBS
2009 KBS Drama Awards KBS2
2014 Real Men: Female Soldier Special - Season 1 MBC Cast member
2015 We Got Married - mùa 4
2016 King of Mask Singer Thí sinh với bí danh "Nice to Meet You Squirrel" (tập 77)
2020 Running Man SBS Khách mời (tập 530 - 531)

Video âm nhạc

Năm Tên bài hát Nghệ sĩ
1996
"Why Is the Sky"
Lee Ji-hoon
1997
"Beautiful Goodbye"
Jung Jae-wook
1998
"Endless Sorrow"
Sa Joon
2008
"Classic"
KCM
"Diary of a Day"
"Fluttering"

Sân khấu kịch

Năm Vở diễn Vai
2009 Hamlet Ophelia

Giải thưởng và đề cử

Bài chi tiết: Danh sách đề cử và giải thưởng của Kim So-yeon

Chú thích

  1. ^ a b c Lee, Claire (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “Former teen star returns to big screen”. The Korea Herald. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  2. ^ Lee, Young-ee (ngày 18 tháng 8 năm 2002). “Korean TV Series to Be Aired First Time in Japan”. The Dong-a Ilbo. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ Park, Jeong-ho. “Korean producer hopes for hit film”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2005.
  4. ^ Elley, Derek (ngày 31 tháng 8 năm 2005). “Review: Seven Swords”. Variety. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  5. ^ a b Cho, Suyoun (ngày 23 tháng 7 năm 2013). “From being a teen star to real actress, Kim So yeon talks about her passion”. BNTNews. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  6. ^ a b “Kim So-yeon Spreads Her Acting Wings in TV Drama Iris”. The Chosun Ilbo. ngày 28 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  7. ^ Han, Sang-hee (ngày 24 tháng 5 năm 2009). “Iris to Bring Spy Story to Small Screen”. The Korea Times. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  8. ^ “Interview: Kim So-yeon, The female warrior Sun-wha from KBS drama Iris - Part 1”. 10Asia. ngày 3 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  9. ^ “Interview: Kim So-yeon in Iris - Part 2”. 10Asia. ngày 3 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  10. ^ Hong, Lucia (ngày 19 tháng 11 năm 2010). “Movie version of TV series IRIS to be released next week”. 10Asia. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  11. ^ Han, Sang-hee (ngày 30 tháng 3 năm 2010). “Younger Men, Power, Money Fill Dramas”. The Korea Times. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  12. ^ “Press conference for SBS TV series Princess Prosecutor: Kim So-yeon says "Ma Hye-ri and I are very similar" - Part 1”. 10Asia. ngày 8 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  13. ^ “Press conference for SBS TV series Princess Prosecutor: Kim So-yeon says "Ma Hye-ri and I are very similar" - Part 2”. 10Asia. ngày 8 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  14. ^ “Interview: Actress Kim So-yeon says "feels like I am back at the starting line" - Part 1”. 10Asia. ngày 9 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  15. ^ “Interview: Actress Kim So-yeon - Part 2”. 10Asia. ngày 9 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  16. ^ “Interview: Actress Kim So-yeon - Part 3”. 10Asia. ngày 9 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  17. ^ Kim, Sun-young (ngày 28 tháng 9 năm 2010). “Review: SBS TV series Doctor Champ - 1st Episode”. 10Asia. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  18. ^ Lee, Jin-ho (ngày 15 tháng 2 năm 2012). “Kim So Yeon of Gabi Wants to be Jang Hee Bin”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  19. ^ Kwaak, Je-yup (ngày 21 tháng 2 năm 2012). “Gabi: East-meets-West thriller on Joseon Kingdom's first coffee”. The Korea Times. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  20. ^ Oh, Mi-jung (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “Kim So Yeon Speaks Russian and Japanese for Gabi”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ Sunwoo, Carla (ngày 8 tháng 3 năm 2012). “Kim So-yeon returns to the big screen after 15 years”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  22. ^ “Kim So Yeon: 'I Seem to have Begun Acting 18 Years Since Debut'”. KBS Global. ngày 9 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  23. ^ “Kim So-yeon cast as female lead in Ji Jin-hee's TV series”. 10Asia. ngày 22 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  24. ^ Ko, Hong-ju (ngày 16 tháng 5 năm 2013). “Kim So-yeon Cast in Lee Joon-gi Drama”. 10Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
  25. ^ Lee, Sun-min (ngày 19 tháng 11 năm 2013). “Kim So-yeon joins I Need Romance”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  26. ^ Hong, Grace Danbi (ngày 8 tháng 1 năm 2014). “Kim So Yeon Plans on Being Bold If a Bed Scene Comes Up in I Need a Romance 3”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  27. ^ Park, Jin-hai (ngày 9 tháng 1 năm 2014). “Cable dramas having heyday”. The Korea Times. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  28. ^ Ko, Hong-ju (ngày 4 tháng 8 năm 2014). “Kim So Yeon, Girl's Day's Hyeri, G.Na and More Join Real Man Female Soldier Special”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  29. ^ Park, Ah-reum (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Jung Kyung Ho and Kim So Yeon Confirmed as Leads of New JTBC Drama”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  30. ^ “Kim So Yeon and Kwak Si Yang Confirmed for ′We Got Married′”. enewsWorld. ngày 27 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
  31. ^ “An emotional performance leads to the next chapter”. Korea JoongAng Daily. ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  32. ^ “FA 김소연, 제이와이드行..이상윤 김태리와 한솥밥”. Sports Seoul (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 4 năm 2018.
  33. ^ 'Secret Mother' looks at Korea's intense education scene”. Kpop Herald. ngày 9 tháng 4 năm 2018.
  34. ^ “Kim So-yeon Returns with Mysterious Role in New TV Series”. The Chosun Ilbo. ngày 19 tháng 5 năm 2018.
  35. ^ Bae Seo-yeon (ngày 18 tháng 1 năm 2019). “유선·김소연·김하경, KBS2 새 주말극 캐스팅 확정”. YTN.
  36. ^ Kim Min-ji (ngày 18 tháng 1 năm 2019). “[공식입장] '제일 예쁜 내 딸' 유선X김소연X김하경 출연… 3인 3색 자매”. News1.
  37. ^ “Lee Ji-ah, Kim So-yeon and Eugene to Star in "Penthouse: War In Life"”. HanCinema.
  38. ^ “TV stars Lee Sang-woo, Kim So-yeon to wed in June”. The Korea Times. ngày 12 tháng 4 năm 2017.

Liên kết ngoài

  • x
  • t
  • s
Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất – phim truyền hình
Thập niên 1970
  • Yeo Woon-kay (1974)
  • Kim Ja-ok, Ahn In-sook và Jung Hye-sun (1975)
  • Kim Hye-ja và Hong Se-mi (1976)
  • Kang Boo-ja và Kim Yoon-gyeong (1977)
  • Kang Hyo-shil và Kim Hye-ja (1978)
  • Kim Hye-ja, Jung Hye-sun và Kim Young-ok (1979)
Thập niên 1980
  • Kim Min-ja (1980)
  • Chang Mi-hee và Kim Young-ran (1981)
  • Hwang Jung-ah và Kim Young-ae (1982)
  • Lee Kyung-jin (1983)
  • Jung Hye-sun (1984)
  • Jung Ae-ri (1985)
  • Kim Yong-rim (1986)
  • Han Hye-sook (1987)
  • Kim Chung (1988)
  • Park Won-sook và Kim Hye-ja (1989)
Thập niên 1990
  • Go Doo-shim (1990)
  • Lee Hwi-hyang và Ha Hee-ra (1991)
  • Chae Shi-ra (1992)
  • Go Doo-shim và Kim Hee-ae (1993)
  • Jung Hye-sun (1994)
  • Kim Yoon-gyeong (1995)
  • Kim Hye-soo (1996)
  • Kim Young-ae (1997)
  • Hwang Shin-hye (1998)
  • Shim Eun-ha (1999)
Thập niên 2000
Thập niên 2010
Thập niên 2020