Chiến tranh Boer thứ hai

Chiến tranh Boer thứ hai
Một phần của Chiến tranh Boer

Quân Boer tại Spionkop
Thời giantháng 10 11, 1899 – tháng 5 31, 1902 (1899-10-11 – 1902-05-31)
(2 năm, 7 tháng, 2 tuần và 6 ngày)
Địa điểm
Nam Phi (ngày nay là Nam Phi và Swaziland)[1]
Kết quả

Anh chiến thắng [3][4]

Thay đổi
lãnh thổ
Anh quản lý Nhà nước tự do Orange và Transvaal theo Hiệp ước Vereeniging
Tham chiến
  • Thuộc địa Cape
  • Thuộc địa Natal
  • Rhodesia[a]
 Canada
Raj thuộc Anh Ấn Độ
New Zealand New Zealand
 Australia
  • New South Wales New South Wales (1899–1901)
  • Tây Úc (1899–1901)
  • Tasmania Tasmania (1899–1901)
  • Nam Úc (1899–1901)
  • Victoria (Úc) Victoria (1899–1901)
  • Queensland Queensland (1899–1901)
  •  Australia (from 1901)
Bản mẫu:Country data British Ceylon

Cộng hòa Nam Phi

Nhà nước Tự do Orange
Cape Boers Tình nguyện viên nước ngoài[b]
Chỉ huy và lãnh đạo
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Lord Salisbury
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Joseph Chamberlain
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Lord Milner
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Lord Roberts
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Sir Redvers Buller
Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland Lord Kitchener
Canada Sir Wilfrid Laurier
Úc Sir Edmund Barton
Paul Kruger
Louis Botha
Schalk W. Burger
Koos de la Rey
Martinus Steyn
Christiaan de Wet
Piet Cronjé (POW)
Piet Joubert
Lực lượng
Quân chính quy Anh:
347.000
Lực lượng thuộc địa:
103.000–153.000
Lực lượng hỗ trợ Nam Phi da đen:
100.000 [1]
Boer Commandos:
Boer Transvaal
25.000
Free State Boers
15.000
Boer Cape
Lực lượng hỗ trợ Boer da đen:
10.000 [2]
Tình nguyện viên nước ngoài:
5.400+[5]
Thương vong và tổn thất
Quân nhân thương vong:
22.092 người chết[c]
934 mất tích[cần dẫn nguồn]
22.828 người bị thương[cần dẫn nguồn]

Quân nhân thương vong:
6.189 người chết [d]
24.000 tù binh Boer bị chuyển ra nước ngoài;
[5]
21.256 bitter-enders đầu hàng vào cuối chiến tranh;[6]

Thương vong thường dân: 46.370 người, trong đó có 26.370 phụ nữ và trẻ em người Boer chết trong các trại tập trung,[7] cùng với 20.000+ người Phi da đen[7] trong số 115.000 người tập trung ở các trại tập trung riêng biệt[cần dẫn nguồn]

Chiến tranh Boer thứ hai (tiếng Hà Lan: Tweede Boerenoorlog, tiếng Afrikaans: Tweede Vryheidsoorlog, "Chiến tranh tự do thứ nhì"), được biết đến nhiều hơn với tên gọi Chiến tranh Boer, Chiến tranh Anh-Boer, Chiến tranh Nam Phi hoặc Chiến tranh Nam Phi Anh-Boer, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 năm 1899 và kết thúc vào ngày 31 tháng 5 năm 1902. Anh đánh bại hai nhà nước Boer ở Nam Phi: Cộng hòa Nam Phi (Cộng hòa Transvaal) và Nhà nước Tự do Orange. Anh được sự hỗ trợ của Thuộc địa Cape, Thuộc địa Natal và một số đồng minh châu Phi. Các nỗ lực chiến tranh của Anh được hỗ trợ thêm bởi các tình nguyện viên từ đế quốc Anh, bao gồm Nam Phi, thuộc địa của Úc, Canada, Ấn Độ và New Zealand. Tất cả các nước khác đều có tính trung lập, nhưng ý kiến ​​của họ phần lớn là thù địch với Anh Quốc. Bên trong Anh Quốc và Đế quốc của cũng có sự phản đối đáng kể đối với Chiến tranh Boer thứ hai. Nước Anh quá tự tin và không có sự chuẩn bị trước.[8] Người Boers đã được trang bị vũ khí và tấn công đầu tiên, bao vây Ladysmith, Kimberley, và Mafeking vào đầu năm 1900, và chiến thắng các trận đánh quan trọng tại Colenso, Magersfontein và Stormberg. Bị chao đảo, Anh Quốc mang một số lượng lớn lính và chiến đấu trở lại. Tướng Redvers Buller được thay thế bởi Lord Roberts và Lord Kitchener. Họ đã giải tỏa ba thành phố bị bao vây và xâm chiếm hai nước cộng hòa Boer vào cuối năm 1900. Các cuộc hành quân của quân đội Anh đã quá áp đảo đến mức Boers không chống lại những trận đánh được tổ chức để bảo vệ quê hương của họ. Nước Anh nhanh chóng nắm quyền kiểm soát toàn bộ Nhà nước Tự do Tự do và Transvaal, khi mà giới lãnh đạo dân sự đã trốn tránh hoặc lưu vong. Theo thuật ngữ thông thường, chiến tranh đã kết thúc. Anh chính thức sáp nhập hai nước vào năm 1900, và gọi đó là cuộc bầu cử kaki để cung cấp cho chính phủ thêm sáu năm nữa quyền lực tại London.

Tuy nhiên, người Boer từ chối đầu hàng. Họ quay trở lại chiến tranh du kích dưới các tướng mới là Louis Botha, Jan Smuts, Christiaan de Wet và Koos de la Rey. Hai năm nữa các cuộc tấn công bất ngờ và nhanh chóng thoát ra sau. Là du kích mà không có đồng phục, máy bay Boer dễ dàng pha trộn vào đất nông nghiệp, nơi cung cấp nơi ẩn náu, nguồn cung cấp, và ngựa. Giải pháp của Anh là thiết lập các khu nhà phức tạp, các điểm mạnh và hàng rào hàng rào kẽm, chia cắt toàn bộ lãnh thổ bị chinh phục. Các nông dân dân sự đã được di dời vào các trại tập trung, nơi tỷ lệ rất lớn đã chết vì bệnh tật, đặc biệt là trẻ em, những người hầu như thiếu các cơ hội miễn dịch. Sau đó các đơn vị bộ binh của Anh Quốc đã theo dõi hệ thống các đơn vị du kích Boer có tính di động cao. Cuộc chiến ở giai đoạn này là những cuộc hành quân nhỏ và chỉ có vài người bị thương (chiến tranh đã chấm dứt trong các điều khoản đầu hàng và của Anh tại Hiệp ước Vereeniging tháng 5 năm 1902). Anh đã thắng được các lãnh tụ Boer, những người đến lúc đó đã hỗ trợ đầy đủ cho hệ thống chính trị mới. Cả hai nước cộng hòa này đều được thành lập vào Liên minh Nam Phi vào năm 1910, do người Boer kiểm soát.

Ghi chú

  1. ^ The Rhodesia Regiment, drawing most of its personnel from the Southern Rhodesia Volunteers, served in the war, contributing around 1,000 men (Keppel-Jones 1983, tr. 590–59).
  2. ^ Số lượng lớn tình nguyện viên đến từ Hà Lan, Đức và Thụy Điển-Na Uy. Các lực lượng nhỏ hơn đến từ các quốc gia Ireland, Úc, Ý, Vương quốc Lập hiến Ba Lan, Pháp, Bỉ, Đế chế Nga, Hoa Kỳ, Đan Mạch và Áo-Hung.
  3. ^ 5,774 chết trong chiến trận; 2.108 người chết vì bị thương; 14.210 chết vì bệnh tật (Eveleigh Nash 1914, tr. 309). 14.658 chết vì bệnh; 75.430 người trở về bị bệnh hoặc bị thương (Wessels 2011, tr. 79).
  4. ^ 6,189 người chết bao gồm: 3,990 chết trên chiến trường; 157 chết trong tai nạn; 924 người bị thương và bị bệnh; 1.118 chết khi là tù binh.(Wessels 2011, tr. 79).
  1. ^ Jones 1999.
  2. ^ Pakenham 1979, Part 1, 'Milner's War'[cần số trang].
  3. ^ Grattan 2009, tr. 147–58.
  4. ^ Haydon 1964, tr. [cần số trang].
  5. ^ a b EB editors 2011.
  6. ^ Wessels 2011, tr. 79.
  7. ^ a b Britain's Vietnam.
  8. ^ Millard, Candice (2016). Hero of the Empire: The Boer War, a daring escape, and the making of Winston Churchill. New York: Doubleday. ISBN 9780385535731. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2017.

Tham khảo

  • Berger, Carl (1970). The Sense of Power; Studies in the Ideas of Canadian Imperialism,: 1867–1914. University of Toronto Press. tr. 233–34. ISBN 978-0-8020-6113-3.
  • Bester, R. (1994). Boer Rifles and Carbines of the Anglo-Boer Warb. Bloemfontein: War Museum of the Boer Republics.
  • Blake, Albert (2010). Boereverraaier. Tafelberg. tr. 46.
  • “Case Name: Anglo-Boer: Britain's Vietnam (1899–1902)”. American University of Washington D.C Trade Environment projects. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2016.
  • Desai, Ashwin; Vahed, Goolem (2015). The South African Gandhi: Stretcher-bearer of Empire. Stanford University Press.
  • “Miscellaneous information: Cost of the war”. AngloBoerWar.com. 2015. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2015.[nguồn không đáng tin?]
  • Chase, Sean (ngày 4 tháng 11 năm 2012). “Dragoons remember the heroes of Leliefontein”. Daily Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2017.
  • Daily Mail (5810). ngày 16 tháng 11 năm 1914. tr. 4 ff. ISSN 0307-7578. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  • Duffy, Michael (ngày 22 tháng 8 năm 2009). “Sam Hughes Biography”. firstworldwar.com.[nguồn không đáng tin?]
  • Cameron, Trewhella biên tập (1986). An Illustrated History of South Africa. Johannesburg: Jonathan Ball. tr. 207.
  • Cartwright, A.P (1964). The Dynamite Company. Cape Town: Purnell & Sons.
  • Davis, Richard Harding (1900). With Both Armies In South Africa. Charles Scribner Sons. tr. 34, fn. 59.
  • EB editors (ngày 31 tháng 3 năm 2011). “South African War (British-South African history)”. Encyclopedia Britannica. Britannica.com. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2013.
  • “Caring for the soldiers health”. Nash's war manual. London: Eveleigh Nash. 1914. tr. 309.
  • Farwell, Byron (tháng 3 năm 1976). “Taking Sides in the Boer War”. American Heritage Magazine. 20 (3). ISSN 0002-8738. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2017.
  • Ferguson, Niall (2002). Empire: The Rise and Demise of the British World Order and the Lessons for Global Power. Basic Books. tr. 235.
  • Grundlingh, Albert (1980). “Collaborators in Boer Society”. Trong Warwick, P. (biên tập). The South African War. London. tr. 258–78.
  • Granatstein, J.L. (2010). The Oxford Companion to Canadian Military History. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-543088-2.
  • Grattan, Robert (2009). “The Entente in World War I: a case study in strategy formulation in an alliance”. Journal of Management History. 15 (2): 147–58.
  • Gronum, M.A. (1977). Die ontplooiing van die Engelse Oorlog 1899–1900. Tafelberg.
  • Haydon, A.P. (1964). “South Australia's first war”. Australian Historical Studies. 11 (42).
  • Hayes, Matthew Horace (1902). Horses on board ship: a guide to their management. London: Hurst and Blackett. tr. 213–14.
  • Jeffery, Keith (2000). “The Irish Soldier in the Boer War”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War. London: Cass. tr. 145. cites
    • Inglis, Brian (1974). Roger Casement. London: Coronet Books. tr. 53–55.
  • Jacson, M. (1908). “II”. The Record of a Regiment of the Line. Hutchinson & Company. tr. 88. ISBN 1-4264-9111-5.
  • Jones, Maurig (1996). “Blockhouses of the Boer War”. Colonial Conquest, magweb. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2008.
  • Jones, Huw M. (tháng 10 năm 1999). Neutrality compromised: Swaziland and the Anglo-Boer War, 1899–1902. Military History Journal. 11. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2017.
  • Judd, Denis; Surridge, Keith (2013). The Boer War: A History (ấn bản 2). London: I. B. Tauris. ISBN 978-1780765914.excerpt and text search; a standard scholarly history
  • Keppel-Jones, Arthur (1983). Rhodes and Rhodesia: The White Conquest of Zimbabwe, 1884–1902. Montreal, Quebec and Kingston, Ontario: McGill-Queen's University Press. tr. 590–99. ISBN 978-0-7735-0534-6.
  • McElwee, William (1974). The Art of War: Waterloo to Mons. London: Purnell. tr. 223–29. ISBN 0-253-31075-X.
  • “Relative Value of UK£: using Economic Power in 2014 (using the share of GDP)”. Five Ways to Compute the Relative Value of a UK Pound Amount, 1270 to Present. Measuringworth.com. 2015. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2015.
  • Marsh, Peter T. (1994). Joseph Chamberlain: Entrepreneur in Politics. Yale University Press. tr. 482–522.
  • Meintjes, Johannes (1974). President Paul Kruger: A Biography . London: Cassell. ISBN 978-0-304-29423-7.
  • Morris, Michael; Linnegar, John (2004). Every Step of the Way: The Journey to Freedom in South Africa. Ministry of Education. tr. 58–95. ISBN 0-7969-2061-3.
  • Nathan, M. (1941). Paul Kruger: His Life And Times. Durban: Knox.
  • O'Brien, P. (1988). The Costs and Benefits of British Imperialism 1846–1914. Past & Present.
  • O'Leary, Michael (ngày 29 tháng 12 năm 1999). “Regimental Rouge – Battles of the Boer War”. Regimental Rouge.
  • Pakenham, Thomas (1979). The Boer War. New York: Random House. ISBN 0-394-42742-4.
  • Peddie, John (ngày 22 tháng 8 năm 2009). “John McCrae Biography”. firstworldwar.com.
  • Pocock, Roger S. (1917). Horses. London: J. Murray. tr. viii fn. 11. ISBN 0-665-99382-X.
  • Powell, Sean-Andre (2015). How Did Winston S. Churchill's Experience As A Prisoner Of War: During The Boer War Affect His Leadership Style And Career?. Pickle Partners Publishing.
  • Onselen, Charles van (1982). “Chapter 1:New Babylon”. Studies in the Social and Economic History of the Witwatersrand, 1886–1914. London: Longman. ISBN 9780582643840.
  • Onselen, Charles van (tháng 10 năm 2003). “'The Modernization of the Zuid Afrikaansche Republiek: F. E. T. Krause, J. C. Smuts, and the Struggle for the Johannesburg Public Prosecutor's Office, 1898–1899”. Law and History Review. American Society for Legal History. 21 (3): 483–526. doi:10.2307/3595118.
  • Pakenham, Thomas (1991) [1979]. The Boer War. London: Cardinal. tr. 571. ISBN 0-7474-0976-5.
  • Pakenham, Thomas (1991a). The Scramble for Africa. tr. 573. ISBN 0-380-71999-1.
  • Ploeger, Jan (1985). “Burgers in Britse Diens (1902)”. Scientia Militaria. 15 (1): 15–22.
  • Pretorius, Fransjohan (2000). “The Experience of the Bitter-Ender Boer”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass. tr. 179.
  • Pretorius, Fransjohan (2011). “Anglo-Boer war”. Trong Jacobs, S.; Johnson, K. (biên tập). Encyclopedia of South Africa.
  • Pulsifer, Cameron (2017). “For Queen and Country: Canadians and the South African War”. Canadian War Museum. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017.
  • “The South African War 1899–1902”. South African History Online. ngày 10 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  • Searle, G.R. (2004). A new England?: peace and war, 1886–1918. Oxford University Press. tr. 269–307.
  • Spies, S.B. (1977). Methods of Barbarism: Roberts and Kitchener and Civilians in the Boer Republics January 1900 – May 1902. Cape Town: Human & Rousseau. tr. 265.
  • Steele, David (2000). “Salisbury and the Soldiers”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass.
  • Stirling, John (ngày 17 tháng 2 năm 2009). “Gordon Highlanders (extract)”. Our Regiments in South Africa. Naval and Military Press.
  • Surridge, Keith (2000). “Lansdowne at the War Office”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass. tr. 24.
  • Swardt, Eric (1998). “The JJ Potgieter Manuscript” (PDF). tr. 97. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2009.
  • Villiers, J.C. de (tháng 6 năm 1984). “The Medical Aspect of the Anglo-Boer War, 1899–1902 Part ll”. Military History Journal. 6 (3): &#91, cần số trang&#93, .
  • Warwick, Peter (1983). Black People and the South African War, 1899–1902. Cambridge University Press.
  • Watt, S (tháng 12 năm 1982). “Intombi Military Hospital and Cemetery”. Military History Journal. Die Suid-Afrikaanse Krygshistoriese Vereniging. 5 (6).
  • Webb, Peter (2010). “The Silent Flag in the New Fallen Snow: Sara Jeannette Duncan and the Legacy of the South African War”. Journal of Canadian Studies. University of Toronto Press. 44 (1): 75–90. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2017.
  • Wessels, André (2000). “Afrikaners at War”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass.
  • Wessels, André (2010). A Century of Postgraduate Anglo-Boer War (1899–1902) Studies: Masters' and Doctoral Studies Completed at Universities in South Africa, in English-speaking Countries and on the European Continent, 1908-2008. African Sun Media. tr. 32. ISBN 978-1-920383-09-1.
  • Wessels, André (2011). The Anglo-Boer War 1889–1902: White Man's War, Black Man's War, Traumatic War. African Sun Media. tr. 79. ISBN 978-1-920383-27-5.
  • Wessels, Elria (2009). “Boers positions in the Klipriviersberg”. Veldslae-Anglo-Boereoorlog 1899–1902. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2013.
  • Witton, George (2003). Scapegoats of the Empire: The True Story of Breaker Morant's Bushveldt Carbineers.[cần chú thích đầy đủ]
  • Yap, Melanie; Leong Man, Dainne (1996). Colour, Confusion and Concessions: The History of the Chinese in South Africa. Hong Kong: Hong Kong University Press. tr. 510. ISBN 962-209-423-6.